Như cái máy, Mồ Côi nghe theo lời, sửa lại vị trí bùi nhùi thì quả nhiên đánh lửa bén ngay. Vẫn không một lời cảm ơn hay nói gì với công chúa, anh cứ cắm cúi làm công việc của mình. Sau khi cơm canh đã chín, Mồ Côi nấu luôn ấm nước chè. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng (Lc 12,35-38) "Tỉnh thức" là hệ luận rút ra khi được Lời Chúa tuần trước dạy rằng: mọi sự ở trần gian này đều là phù vân, tạm bợ, chỉ là những phương tiện để con người kiến tạo cho mình cuộc sống đời đời. Ai cũng phải công Rồi dâng lời ngợi khen, cảm tạ, xin tha thứ, cầu cho mình hay chuyển cầu cho người khác, tùy theo sự thúc đẩy của Lời Chúa. * Khi chia sẻ chung, hãy để giờ cho anh chị em dâng lời nguyện. Lời nguyện kết (Thánh vịnh Đáp ca 95) Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, Hát lên Nhất là vâng Lời Chúa lại càng quý hơn. Lời Chúa hôm nay nói với các em một mẫu gương về đức vâng lời , mời các em cùng lắng nghe. III. CÔNG BỐ LỜI CHÚA : St 12, 1- 4. IV. GIẢI THÍCH LỜI CHÚA. 1. Dẫn vào Lời Chúa. - Lời Chúa các em vừa nghe được trích trong sách nào ? Lời Chúa là Lời của an ủi, nhưng cũng là Lời của hoán cải. "Anh em hãy hoán cải", Chúa Giêsu nói ngay sau khi công bố Nước Thiên Chúa đến gần. Bởi vì với sự gần gũi của Người, thì thời gian xa cách với Thiên Chúa và với người khác kết thúc; và thời gian mỗi người chỉ nghĩ cho riêng mình cũng kết thúc. Vay Nhanh Fast Money. 11/05/2019 Thứ Bảy Tuần III Mùa Phục Sinh v 9, 31-42; Ga 6, 61-70 Hl 60-69Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam ta thấy có câu rất hay “Sự thật mất lòng”.Và với Chúa Giêsu cũng vậy, Chúa Giêsu không sợ mất lòng mà sợ mất sự thật. Vì thế Ngài khẳng định sự thật Ngài chính là Bánh đem lại sự sống đời đời, bất chấp cho lời đó chướng tai gây sốc’ khiến các môn đệ rời bỏ Ngài. Trước tình huống phải chọn lựa một trong hai ấy, Phêrô đã không a dua’ theo đám đông mà bỏ Thầy; trái lại ông dám khảng khái tuyên xưng đức tin “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai,” dù cho ông không thấy, không hiểu hết nội dung điều ông vừa tuyên xưng. Ông chỉ biết một điều là luôn bám chặt vào con người Thầy Giêsu, Đấng mà ông tin tưởng ngay cả trong lúc tối tăm vô định nhất, tin tưởng ngay cả khi không có gì để kiểm chứng, để bám víu, ngay cả khi con người ông vẫn còn những yếu đuối khuyết lời tuyên tín chọn Chúa, Phêrô nêu ra ba lý do khiến các ông và các bạn ở lại với Đức Giêsu chứ không rút lui bỏ Ngài như đa số,Ta thấy trước tiên “bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai” nghĩa là chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng, hơn hớt niềm tin. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn Ngài, điều này không có gì bảo đảm chắn chắn khi bỏ Ngài. Suy tư sáng suốt khi tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, cho nên khôn ngoan là ở lại với Đức đến, ta thấy tâm tư thật sâu lắng “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” lời tuyên tín nhắc lại đặc tính của các lời Đức Giêsu như chính Người đã nói “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” Ga 6, 63. Phêrô chấp nhận lời Thầy mang Thần Khí và sự sống nên tuyên tín “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” Ga 6, 68. Dù ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất sứ điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó. Đó là ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu như Ngài nhấn mạnh thường xuyên trong diễn từ Thánh tiếp theo ta thấy xác tín của Thánh Phêrô khi Ngài chọn Chúa “chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Phêrô và nhóm Mười Hai hiểu và nhận biết Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” Ga 6, 69. “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Phêrô lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16 ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện, trong đó có nói đến danh hiệu “Đấng Thánh của Ngài”, theo bản dịch Bảy mươi Cv 2, 27 như Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha Ga 5,19-30, Ngài còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh hiến” Ga 10, 6;17, 19.Danh hiệu “Đấng Thánh Của Thiên Chúa” cao vượt hơn danh hiệu “Thiên Sai” rất nhiều và thích hợp với danh hiệu “Con Thiên Chúa” mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mátthêu 16,16″. Cho nên, chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu. Chính vì thế các ông đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức số lớn các môn đệ thiếu đức tin và theo cảm xúc và hời hợt, lý trí của con người trước mặc khải mầu nhiệm Thánh Thể, nên không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu. Trong lúc Ngài Giêsu luôn nhắc các môn đệ là Ngài không đến, không nói như một người thường, nhưng là Người đến từ Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật Con Người – Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa x. Ga 6, Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, trên sự hiểu và nhìn nhận bản thân Người. Nhưng đám đông dân chúng trong số có các môn đệ đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Ngài và đối với lời Ngài. Vì thế nhiều môn đệ “rút lui, không còn ở với Người nữa” Ga 6,66.Tuy nhiên, nhóm Mười Hai chọn lựa ở lại Ga 6, 67-69 Nhóm Mười Hai – các môn đệ gần gũi với Chúa Giêsu, cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi mầu nhiệm của mạc khải Thánh Thể và những lời đòi hỏi của Ngài. Trước những thử thách cao độ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với họ “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ga 6, 67. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm khi tuyên xưng “chúng con” “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” Ga 6, 68-69Còn với chúng ta, những người thân tín nhất của Chúa, hôm nay và mỗi giây phút trong đời, Chúa cũng nói với chúng ta “Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nũa không”? Chọn lựa thì dễ, còn sống theo điều đã chọn lựa lại là chuyện khác. Tất cả chúng ta đều là người đã chọn lựa Chúa. Nhưng điểm lại những năm tháng của đời chúng ta, chúng ta sống thế nào? Giáo xứ chúng ta thử hỏi xem có bao nhiêu người sinh hoạt tôn giáo đều đặn, có biết bao người giống như dân Do Thái theo Chúa để được ăn bánh no bước chân của Phêrô và các môn đệ chúng ta xác tín “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” Ga 6, 68. Chọn và sống theo Chúa Kitô là cùng Ngài đi trong ban ngày của bình yên cuộc sống hay giữa đêm tối của phong ba thử thách như Phêrô và các môn đệ. Sống với niềm tin vào Ngài là khước từ cách hiểu biết, giác quan và lý luận thông thường, hơn hớt bên ngoài, nhưng là tin mà không thấy Ga 20, 29 là vững bước với sự chọn lựa và xác tín theo như ta đi tìm Chúa chỉ vì những cái lợi lộc trước mắt, những lời bùi tai, những giàu sang vật chất thì sẽ không thể gặp Chúa, vì Chúa không đến để ru ngủ, phỉnh phờ. Chúa không chủ trương nói cho bùi tai, mật ngọt chết ruồi. Bản thân Chúa hiền hậu và khiêm nhường Mt 11,29 nhưng lời nói thì thẳng thật, mất lòng trước được lòng sau. Những lời chướng tai không thiếu gì trong Phúc âm Tám mối phúc thật, yêu kẻ thù, bước qua cửa hẹp, vác thập giá, mất mạng sống…và ai ăn thịt và uống máu Tôi thì đước sống muôn đời.” Nhưng Chúa không rút lời, không nói nhẹ đi, vì thế có nhiều môn đệ “lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi.” Và họ rút lui, bỏ đi không theo Chúa và nhất là bước theo Chúa luôn đòi hỏi con người phải lột xác, phải dấn thân hy sinh. Chúa đến với ta bằng cách trở nên xác phàm, làm thân phận con người hèn yếu, sinh trong máng cỏ hang lừa, sống bằng nghè thợ mộc, cưa đục nhọc nhằn và chết trên thập giá. Đó là con đường Chúa chọn để cứu độ loài người.“Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Đức tin cũng là một thứ vàng cần phải được thanh luyện. Những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống đòi chúng ta phải chọn lựa dứt khoát theo Chúa hay là không theo Chúa; đó chính là hòn đá thử xem chất vàng đức tin của chúng ta đã đủ tuổi’ hay chưa ngõ hầu trụ’ được trước những thách đố của tinh thần thế tục, hưởng thụ lạc thú, quyền lực… đang làm xói mòn, hoen rỉ đức rồi Chúa Giêsu cũng hỏi chúng ta, một lần nữa chúng ta phải quyết định. Người mời gọi các môn đệ chọn lựa. Nhiều người đã thấy chối tai khi nghe người nói “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi”. Chúa Giêsu quét sạch những lời giải thích thô thiển. “Chính Thần Khí mới làm cho sống. Xác thịt không làm được gì. Lời của Tôi là Thần Khí và Sự Sống. Vấn đề là gặp gỡ Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, là đón nhận ân ban của “Chúa Cha và đồng hành với Người”. Không bao giờ có một con đường vạch sẵn. Thông thường ta phải định hướng lại cuộc đời mình và phải quyết định. Chúa Giêsu không để lại cho chúng ta một mật mã. Người đã ban cho chúng ta Thần Khí. Điều còn lại là nối dài hành vi tự do và sáng tạo của con người. Người đã phán “Thầy là Đường”.Đứng trước thách đố của nhiều người và một số môn đệ bỏ Chúa, Phêrô đại diện cho nhóm 12 và cả chúng ta. Và rồi mỗi người chúng ta hôm nay cũng có thể bắt chước Phêrô, đại diện cho toàn thể những anh chị em trong giáo xứ chúng ta để nói lên lời quyết tâm theo Chúa “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có lời ban sự sống”.Huệ Minh “Anh em đã nhận Đức Chúa Jêsus Christ thể nào, thì hãy bước đi trong Ngài thể ấy; hãy châm rễ và lập nền trong Ngài, lấy đức tin làm cho bền vững, tùy theo anh em đã được dạy dỗ, và hãy dư dật trong sự cảm tạ.” Cô-lô-se 26-7 “Hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình.” Gia-cơ 122 “Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến.” Giăng 1613 “Vả, thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.” 1 Giăng 217 Trời Xuân tươi mới rộn ràng, Hỏi lòng ta có sẵn sàng hay chưa? Trải qua sóng gió nắng mưa, Vui buồn, phước hạnh trọn vừa một năm! Lắng lòng xét lại trong tâm, Điều gì sai quấy lạc lầm ngày qua? Ăn năn xin Chúa thứ tha, Thánh Linh sửa dạy, xét tra mọi đường! Đã tin nhận Chúa yêu thương, Thì không còn phải vấn vương đời này, Bước đi theo Chúa mỗi ngày, Lập nền, châm rễ không thay đổi dời, Vững tin vào Chúa đời đời, Làm theo Kinh Thánh, y Lời chẳng sai, Cầu nguyện, suy gẫm mỗi ngày, Hết lòng thực hiện liền ngay chớ chờ! Thế gian tham dục bẩn dơ, Đều qua đi hết… dần mờ thời gian… Nhưng ai theo ý Chúa ban, Thì vui sống mãi bình an đời đời! TIỂU MINH NGỌC V “Về mọi lời vô ích…” NÓI “NHỮNG LỜI CỦA THIÊN CHÚA” 1. Những lời “vô ích” và những lời “hữu hiệu” Nơi Phúc Âm Matthêu, trong bối cảnh diễn từ về những lời cho thấy lòng dạ con người, có một lời khiến các độc giả Phúc Âm của mọi thời đại phải run sợ “Tôi nói cho các người hay đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lẽ về những điếu vô ích mình đã nói.” Mt 12,36 Cắt nghĩa điều Đức Giêsu muốn nói qua “lời nói vô ích” luôn là việc khó. Một đoạn khác của Phúc Âm Matthêu 7,15-20 có thể soi sáng cho chúng ta về chủ đề này ở đó chúng ta thấy chuyện cây nào trái nấy. Toàn bộ diễn từ dường như nhắm đến các tiên tri giả “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai… Nếu lời Đức Giêsu có điều gì đó liên quan đến lời ngài nói về các tiên tri giả, khi ấy chúng ta có thể thấy chữ "vô ích" có nghĩa gì. “Vô ích” dịch từ thuật ngữ gốc argon có nghĩa là "không có hiệu quả" a phản ý và ergon, công việc. Một số bản dịch hiện đại, trong đó có bản dịch tiếng Ý của Hội Đồng Giám Mục Ý, dịch là "không có nền tảng", tức là theo nghĩa thụ động lời nói không có nền tảng, do đó là vu khống. Đây là một cố gắng làm cho người ta yên tâm hơn trước lời đe dọa của Đức Giêsu. Thực sự không có gì phải đặc biệt lo ngại nếu Đức Giêsu nói với chúng ta rằng chúng ta phải tính sổ với Chúa về mọi lời vu khống! Tuy nhiên, ý nghĩa của argon, đúng hơn, là tích cực và có nghĩa lời nói không xây dựng gì, không tạo ra gì, nói cách khác là lời nói trống rỗng, vô bổ, không có hiệu quả[1]. Theo nghĩa này, cách dịch cũ của bản Phổ thông chính xác hơn, verbum otiosum, lời nói vô dụng, vô ích; vả lại, đó là nghĩa được sử dụng trong hầu hết các bản dịch. Không khó để hiểu được điều Đức Giêsu muốn nói nếu chúng ta đối chiếu tính từ này với tính từ trong Kinh Thánh luôn mô tả đặc điểm của Lời Chúa tính từ energes, hữu hiệu, tác động, luôn có hiệu quả ergon đi theo, cũng là tính từ mà từ đó phát xuất ra lời "có hiệu quả". Thánh Phaolô viết rằng những người Thessalônica, một khi nhận được lời Chúa qua lời rao giảng, đã đón nhận nó không phải như lời của con người, nhưng thực sự là "Lời Thiên Chúa, tác động energitai nơi anh em là những người tín hữu" 1Tx 2,13. Sự đối lập giữa lời Thiên Chúa và lời con người được trình bày ở đây mặc nhiên giống như sự đối lập giữa lời tác động và lời không tác động, giữa lời hữu hiệu và lời vô hiệu, vô ích. Trong Thư Do thái chúng ta cũng thấy khái niệm về hiệu năng của lời Chúa “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu…” Dt 4,12 Nhưng đó là một khái niệm lâu đời; trong Isaia, Đức Chúa tuyên bố rằng lời từ miệng Người nói ra không bao giờ trở lại với Người mà "không có kết quả", mà “chưa thực hiện ý muốn của Người, chưa chu toàn sứ mệnh Người giao phó” x. Is 55,11 . Vậy lời nói vô ích, mà người ta sẽ phải tính sổ vào ngày phán xét, không phải là tất cả và bất cứ lời nói vô ích nào; đó là lời vô dụng, trống rỗng, được nói ra bởi một người mà, ngược lại, lẽ ra phải nói những lời “hữu hiệu” của Thiên Chúa. Nói tắt đó là lời của tiên tri giả, người không nhận được Lời của Thiên Chúa, nhưng đánh lừa người khác tin rằng đó là Lời của Thiên Chúa. Tất cả những lời vô ích ấy về Thiên Chúa, con người sẽ phải tính sổ! Ý nghĩa của lời cảnh báo nghiêm trọng này mà Đức Giêsu muốn nói là ở đó. Lời vô ích ngụy tạo lời Chúa, là ký sinh của lời Chúa. Nó được nhận ra từ hoa quả mà nó không sản sinh ra vì, theo định nghĩa, nó vô bổ, không hiệu quả theo nghĩa tích cực của thuật ngữ này. Nó có thể làm cho tai và trí khôn mở ra, nhưng không chạm vào trái tim, không đưa tới hành động. Thiên Chúa "canh thức để thi hành lời của Người" x. Gr 1,12; Người ghen về lời Người và không thể cho phép con người chiếm đoạt quyền năng thần linh chứa đựng trong đó. Tiên tri Giêrêmia cho phép chúng ta nghe, như thể qua một bộ khuếch đại, lời cảnh báo ẩn giấu trong lời này của Đức Giêsu. Giêrêmia rõ ràng tuyên sấm về các tiên tri giả thế này "ức Chúa các đạo binh phán như sau đừng nghe lời các ngôn sứ tuyên sấm; chúng phỉnh phờ các ngươi, điều chúng nói chỉ là thị kiến do tưởng tượng, chứ không phải do miệng Đức Chúa phán ra […] Ngôn sứ có chiêm bao thì cứ thuật lại giấc chiêm bao, còn người đón nhận lời Ta, thì hãy trung thành nói lại lời Ta! Rơm với lúa có gì chung nhau không? Sấm ngôn của Đức Chúa. Lời của Ta lại chẳng giống như lửa, chẳng giống như búa đập tan tảng đá sao? Sấm ngôn của Đức Chúa. Vì thế Ta chống lại các ngôn sứ ăn cắp lời của Ta. Ta chống lại các ngôn sứ dùng ba tấc lưỡi của mình mà tuyên sấm – sấm ngôn của Đức Chúa” Gr 23, 2. Những ai là tiên tri giả Nhưng chúng ta không ở đây để nói về các tiên tri giả trong Kinh Thánh. Như thường lệ, vấn đề là Kinh Thánh nói về chúng ta và cho chúng ta. Lời này của Đức Giêsu không xét xử thế gian, nhưng là Giáo Hội; thế gian sẽ không bị xét xử về những lời vô ích của nó tất cả những lời của thế gian, theo nghĩa được mô tả ở trên, đều là những lời vô ích!, nhưng có lúc nó sẽ bị xét xử vì đã không tin vào Đức Giêsu 16,9. Những người sẽ phải tính sổ về mọi lời vô ích là những người của Giáo Hội; chính là chúng ta, những người rao giảng lời Chúa. "Những tiên tri giả" không chỉ là những người gieo rắc đây đó những lạc thuyết, nhưng còn là những kẻ “xuyên tạc lời Thiên Chúa”. Chính Phaolô sử dụng thuật ngữ này, mượn trong ngôn ngữ thường ngày; theo nghĩa đen, nó có nghĩa là “pha loãng” lời, như những chủ quán bất lương đã làm, khi họ pha thêm nước vào rượu 2Cr 2,17 ; 4,2. Các tiên tri giả là những kẻ không trình bày lời Thiên Chúa trong sự tinh tuyền của nó, nhưng pha loãng nó và làm nó chìm nghỉm trong hàng ngàn vạn lời của con người phát ra từ lòng họ. Tiên tri giả cũng chính là tôi, bất cứ khi nào tôi không tin tưởng vào sự “yếu đuối”, “điên rồ”, sự nghèo nàn hay trần trụi của lời, và tôi muốn mặc áo quần cho nó; khi tôi coi trọng việc trang sức này và dành nhiều thời gian cho việc trang sức này hơn là chính lời, qua việc cầu nguyện, tôn thờ và mong muốn để lời ở trong tôi. Chỉ có một tiên tri "thật" theo nghĩa tuyệt đối Chúa Giêsu Kitô, Đấng luôn luôn và chỉ nói "những lời của Thiên Chúa" Ga 3,34. Các Phúc Âm không chứa đựng những lời "vô ích", thậm chí một lời cũng không, mà chỉ có "những lời ban sự sống đời đời", những lời là "thần khí và sự sống". Tại Cana xứ Galilê, Đức Giêsu biến nước thành rượu, nghĩa là biến chữ chết thành Thần Khí tác sinh các Giáo Phụ giải thích theo nghĩa thiêng liêng như thế; các tiên tri giả là những người làm ngược lại, tức là biến đổi rượu thuần khiết của lời Chúa thành nước không làm ai say, thành chữ chết, hoặc thành những lời theo sự khôn ngoan của con người x. 1Cr 2,4. Thực tế, họ hổ thẹn về Phúc Âm x. Rm 1,16, về những lời của Đức Giêsu, vì những lời đó quá "khó nghe" đối với thế gian, hoặc không có giá trị và quá thô sơ cho các nhà thông thái, và khi đó họ cố gắng "thêm gia vị" cho chúng bằng những gì mà Giêrêmia gọi là "những mơ ước của lòng họ" Gr 14,1. Thánh Phaolô đã viết cho môn đệ của ngài là Timôthê "Hãy cố gắng ra trước mặt Thiên Chúa như […] một người thẳng thắn dạy lời chân lý. Còn những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, anh hãy tránh xa, vì những kẻ nói những chuyện ấy sẽ tiến sâu vào con đường vô luân” 2Tm 2,15-16. Những chuyện nhảm nhí là những chuyện không liên quan đến kế hoạch của Thiên Chúa, cũng không liên quan đến sứ mệnh của Giáo Hội. Quá nhiều lời của con người, quá nhiều lời vô ích, quá nhiều phát biểu, quá nhiều tài liệu. Trong kỷ nguyên truyền thông đại chúng, Giáo Hội cũng có nguy cơ chìm vào "bãi rác" những lời vô ích, được nói ra chỉ để nói, được viết ra vì phải điền vào chỗ trống cho các trang báo và tạp chí. Như vậy, chúng ta làm cớ cho thế giới sống yên hàn trong sự vô tín và tội lỗi của mình. Nếu thế giới nghe lời chính thực của Chúa, sẽ không đơn giản cho người không tin bỏ ra ngoài mà nói "Chỉ thấy dài và dai!". Thánh Phaolô cho thấy lời Chúa như "khí giới chúng ta dùng để chiến đấu", và nói rằng, nhờ ơn Chúa, lời ấy "có sức đánh đổ các đồn lũy. Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng” 2Cr 10,3-5. Theo triết gia Kierkegaard, nhân loại đang suy nhược vì ồn ào động đạc. Phải “công bố một thời gian chay tịnh”, nhưng là chay tịnh lời nói; phải có ai đó kêu lên "Hỡi Israel, hãy im lặng mà nghe!", như Môsê đã kêu lên Đnl 27,9. Đức Bênêđitô XVI nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của thứ chay tịnh này trong cuộc gặp gỡ Mùa Chay với hàng giáo sĩ Rôma, và tôi tin rằng, như thường lệ, lời mời gọi của ngài đã được gửi cho Giáo Hội trước khi được gửi cho thế giới. 3. Đức Giêsu đã không đến để nói với chúng ta những điều không quan trọng Những lời sau đây của Charles Péguy luôn gây ấn tượng cho tôi “Này con, - Chính là Giáo Hội đang nói với con cái mình - Đức Giêsu Kitô đã không đến để nói với chúng ta những chuyện nhảm nhí. Con hiểu, Ngài đã không du hành đến trái đất... Để kể cho chúng ta những chuyện giải trí trẻ em Và những chuyện cười đùa... Ngài không có thời gian để vui chơi... Ngài đã không tốn phí đến vậy Để mang đến cho chúng ta Những câu đố vui[2].” Mối quan tâm phân biệt lời Chúa với bất cứ lời nào khác lớn lao đến nỗi, khi sai các tông đồ đi truyền giáo, Đức Giêsu ra lệnh cho họ đừng chào hỏi ai dọc đường Lc 10,4. Tôi phải khó khăn lắm mới học được là đôi khi phải hiểu lệnh truyền này theo nghĩa đen. Dừng lại để chào hỏi và trao đổi xã giao lúc sắp phải giảng, chắc chắn sẽ mất tập trung vào lời phải giảng, và làm mất đi ý nghĩa về sự khác biệt của nó so với bất kỳ loại phát biểu nào của con người. Chúng ta cảm nhận hoặc sẽ phải cảm nhận cùng một đòi hỏi ấy khi mặc phẩm phục để cử hành Thánh lễ. Đòi hỏi còn mạnh hơn khi nói đến chính nội dung rao giảng. Trong Phúc Âm Máccô, Đức Giêsu trích dẫn lời của Isaia "Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” Is 29,13; rồi Ngài nói với những người Pharisiêu và các kinh sư "Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm... Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông…Các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lời Thiên Chúa.” Mc 7,7-13 Khi chúng ta không giới thiệu lời Chúa đơn giản và trần trụi, mà không đưa nó qua bộ lọc của vô số những phân biệt và xác định, những bổ sung và giải thích, tự chúng cũng chính đáng, nhưng lại giết chết lời Chúa, thì đúng là chúng ta làm điều mà hôm ấy Đức Giêsu đã khiển trách các người Pharisiêu và các kinh sư chúng ta đã “hủy bỏ” lời Chúa, đã "phản bội" nó, khi làm cho nó mất đi phần lớn sức mạnh thâm nhập vào trái tim con người. Lời Chúa không thể được dùng để diễn thuyết tùy hoàn cảnh hay để phủ bọc những diễn thuyết dọn sẵn và hoàn toàn của con người bằng thế giá của Thiên Chúa. Trong thời gian gần đây, chúng ta đã thấy xu hướng này dẫn tới đâu. Phúc Âm đã được sử dụng để hỗ trợ tất cả các loại dự phóng của con người từ đấu tranh giai cấp đến cái chết của Thiên Chúa. Khi một cử tọa được xác định trước bằng các điều kiện tâm lý, nghiệp đoàn, chính trị, đến nỗi ngay từ đầu, không thể không nói những gì họ mong đợi, không thể không cho họ có lý về mọi chuyện; khi không hy vọng có thể dẫn khán giả tới chỗ có thể nói với họ "Hãy hoán cải và tin!”, thì tốt hơn là không công bố lời Chúa, để lời Chúa không bị sử dụng như phương tiện cho những mục đích phe phái, và do đó bị phản bội. Nói cách khác, tốt hơn là không nên rao giảng đích danh, bất quá chỉ cần lắng nghe, cố gắng hiểu và chia sẻ những lo lắng và đau khổ của người ta, rao giảng Nước Thiên Chúa bằng sự hiện diện và bác ái. Trong Phúc Âm, Đức Giêsu rất cẩn thận không để mình bị biến thành dụng cụ cho những mục đích chính trị và phe phái. Khi bàn về các vấn đề giáo lý và kỷ luật của Giáo Hội, cần phải can đảm khởi đi thường xuyên từ lời Chúa, đặc biệt lời của Tân Ước và sau đó gắn bó với lời này, chịu để cho lời này ràng buộc, chắc chắn theo cách này người ta được bảo đảm hơn sẽ đạt được mục đích là khám phá ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa trong mỗi vấn đề. Người ta cũng cảm thấy nhu cầu như vậy trong các cộng đồng tu sĩ. Trong việc đào tạo những người trẻ và những tập sinh, trong những buổi linh thao và phần còn lại của đời sống cộng đồng, người ta có nguy cơ dành nhiều thời gian cho các văn phẩm của vị sáng lập thường có nội dung rất tầm thường và nghèo nàn hơn là cho lời Chúa. Như vậy người ta đào tạo những môn đệ của con người hơn là những môn đệ của Đức Kitô. 4. “Nói như những lời của Thiên Chúa” Tôi hiểu những gì mình nói có thể khiến nhiều người bác bẻ cách nghiêm trọng. Việc rao giảng của Giáo Hội phải chăng sẽ chỉ còn là một chuỗi các trích dẫn Kinh Thánh, với một số lượng tham chiếu chương này câu kia, theo cách của giáo phái Chứng Nhân Giêhôva và các nhóm duy căn fondamentalistes khác? Chắc chắn là không. Chúng ta là những người thừa kế một truyền thống khác. Đây là điều tôi muốn nói qua việc gắn bó với lời Chúa. Vẫn trong Thư thứ hai Côrintô, thánh Phaolô viết "Chúng tôi không phải như nhiều người, những kẻ xuyên tạc nghĩa đen là pha loãng, ngụy tạo! lời Chúa, mà với tư cách là những người trung thực, được Thiên Chúa sai đi, chúng tôi lên tiếng trước mặt Người, trong Đức Kitô” 2Cr 2,17 và thánh Phêrô trong Thư thứ nhất khuyên các Kitô hữu như sau “Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa" 1Pr 4,11. “Nói trong Đức Kitô”, hay “nói như lời Thiên Chúa", có nghĩa gì? Chắc chắn không có nghĩa là chỉ lặp lại nguyên si những lời được Đức Kitô và Thiên Chúa nói trong Kinh Thánh; nhưng có nghĩa là cái hứng căn bản, tư tưởng "định hình" và hỗ trợ mọi sự, phải đến từ Thiên Chúa chứ không phải từ con người. Người loan báo phải được "Thiên Chúa lay động” và nói như Người đang hiện diện trước mặt. Có hai cách chuẩn bị một bài giảng hoặc bất kỳ loan báo nào về đức tin, bằng lời nói hay chữ viết. Trước tiên tôi có thể ngồi ở văn phòng, và chính tôi chọn lời để loan báo và chủ đề để khai triển, dựa trên kiến thức, sở thích của tôi, Và một khi chuẩn bị xong bài giảng, tôi có thể quỳ xuống khẩn khoản nài xin Chúa chúc phúc cho những gì tôi đã viết và làm cho những lời của tôi có hiệu quả. Việc này đã tốt, nhưng nó không phải là đường lối tiên tri. Đúng hơn, phải làm ngược lại. Đầu tiên, quỳ xuống và cầu xin Chúa cho biết đâu là lời Người muốn nói; sau đó, ngồi vào bàn làm việc và sử dụng những kiến thức của mình để tạo hình hài cho lời này. Điều này làm thay đổi mọi sự, vì theo cách này, không phải Thiên Chúa phải làm cho lời của tôi thành lời của Ngài, mà chính tôi là người làm cho lời của Ngài thành lời của tôi. Phải khởi đi từ chỗ tin chắc rằng, trong mọi hoàn cảnh, Chúa Phục Sinh có trong lòng một lời mà Ngài muốn truyền đạt cho dân. Chính lời đó làm thay đổi sự việc, chính lời đó cần phải được khám phá. Và Ngài mạc khải lời đó cho thừa tác viên của mình, nếu người này khiêm tốn và kiên nhẫn nài xin Ngài. Lúc đầu, đây gần như là một vận hành của trái tim mà chúng ta không nhận ra một ánh sáng nhỏ bừng lên trong tâm trí, một lời Kinh Thánh bắt đầu làm ta chú ý và làm sáng tỏ một tình huống. Đó thực sự là "hạt nhỏ nhất trong tất cả các hạt", nhưng sau đó chúng ta nhận ra rằng, ở bên trong đã có mọi sự; có một tiếng sét có thể quật ngã những cây hương nam xứ Liban. Sau đó chúng ta ngồi vào bàn làm việc, mở sách, tham khảo các ghi chú, các Giáo Phụ, các bậc thầy, các nhà thơ.... Nhưng bây giờ, tất cả hoàn toàn khác. Không còn là lời Chúa phục vụ văn hoá của chúng ta, nhưng là văn hoá của chúng ta phục vụ lời Chúa. Origen mô tả quá trình dẫn đến khám phá này. Theo ông, trước khi tìm kiếm thức ăn trong Kinh Thánh, phải chịu đựng một "[…] sự nghèo khó nào đó của giác quan; tâm hồn bị bóng tối bao quanh tứ phía, đụng vào những con đường không lối thoát. Cho đến lúc, đột nhiên, sau khi đã tìm kiếm vất vả và cầu nguyện, tiếng của Ngôi Lời vang lên, và ngay lập tức, một cái gì đó sáng lên; Đấng mà tâm hồn tìm kiếm đang đến gặp, “nhảy nhót trên đồi, tung tăng trên núi” x. Dc 2,8, tức là mở rộng tâm trí để nhận được lời mạnh mẽ và sáng láng của Ngài[3]." Một niềm vui lớn lao kèm theo lúc này, niềm vui khiến Giêrêmia phải thốt lên "Gặp được lời Chúa, tôi đã nuốt vào. Lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thỏa lòng con” Gr 15,16. Nói chung, câu trả lời của Thiên Chúa là dưới hình thức một lời Kinh Thánh; tuy nhiên vào lúc này, lời ấy có liên quan lạ lùng với tình huống và với vấn đề phải bàn, như thể lời ấy đã được viết ra chính xác cho trường hợp này. Đôi khi thậm chí không cần trích dẫn một cách minh nhiên lời Kinh Thánh nào đó, hoặc bình giải về nó. Chỉ cần lời này hiện diện rõ trong tâm trí người nói và thấm nhiễm mọi điều ông nói. Nếu có trường hợp như vậy thì de facto trên thực tế ông nói "những lời của Thiên Chúa". Phương pháp này vẫn còn có giá trị cho các văn kiện lớn của Huấn quyền cũng như cho bài học mà vị giám tập truyền đạt cho tập sinh, cho hội nghị các học giả cũng như cho bài giảng khiêm tốn của Thánh lễ Chúa nhật. Tất nhiên, thực tại và kinh nghiệm của con người không bị loại ra khỏi lời rao giảng của Giáo Hội, nhưng phải lụy phục lời Thiên Chúa, phải phục vụ lời này. Cũng như trong Thánh Thể, thân thể của Đức Kitô đồng hóa người ăn, chứ không ngược lại, cũng vậy, trong việc loan báo, chính lời Chúa, là nguyên lý mạnh nhất của đời sống, phải bắt lời của con người lụy phục và bị đồng hoá, chứ không ngược lại. Nhà giảng thuyết lừng danh Bossuet viết như sau "Người rao giảng Phúc Âm là người làm cho Đức Giêsu Kitô nói, nhưng ông không làm cho Ngài nói một ngôn ngữ của con người; ông sợ đưa một vật thể lạ lẫm vào chân lý vĩnh cửu của Ngài. Thánh Augustinô nói “Không phải ông lơ là với một số đồ trang trí cho cách diễn đạt, khi ông đi ngang qua và bắt gặp chúng và ông thấy chúng như đang nở hoa trước mắt ông bởi sức mạnh của những ý nghĩ tốt thúc đẩy chúng, nhưng cũng không ảnh hưởng đến việc dùng chúng mà tô vẽ quá đáng; và bất kỳ thiết bị nào cũng tốt cho ông, miễn ông là một tấm gương nơi Đức Giêsu Kitô hiện ra trong chân lý của Ngài, là một kênh từ đó chảy ra nước hằng sống tinh tuyền của Phúc Âm hoặc nếu cần một điều gì đó sinh động hơn, thì một thông dịch viên trung thành không làm thay đổi, chuyển hướng, cũng không pha trộn hay làm suy yếu lời thánh của Ngài[4]." Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về điều mà chỉ lời Thiên Chúa có thể làm, lời mà chúng ta tin tưởng sâu xa và được sống trước hết bởi người công bố nó, thậm chí đôi khi người đó không biết. Thông thường, chúng ta thấy rằng trong vô số lời, chính lời đó đã đánh động con tim và đưa nhiều người đến với tòa giải tội. Trong các bình giải Phúc Âm Chúa nhật mà tôi thực hiện trên truyền hình, tôi đã có thể thu thập nhiều lời chứng. Tôi nghĩ về lời chứng của đôi vợ chồng chưa cưới mà triết lý, theo họ, là vui chơi tối đa, không có quy tắc hay giới hạn. Cha mẹ kêu gọi họ tham gia truyền giáo; do giáo dục mà họ chấp nhận, nhưng coi sự việc không nghiêm túc chút nào. Vậy trong bài giảng, họ nghe được những lời này “Đường thênh thang thì đua đến diệt vong” Mt 7,13 Cô gái choáng người; cô quay sang chàng trai và nói với anh ta “Chúng ta đang trên con đường này... hoặc là anh cũng thay đổi hoặc chúng ta thôi không gặp nhau nữa". Tức giận, anh trả lời là cô ta điên rồ, anh sẽ đưa cô về nhà, và sẽ nói lời tạm biệt với cô. Một ngày nọ, anh mở Kinh Thánh và đọc được lời này “Ta đứng trước cửa và Ta gõ” Kh 3,20, và một lần nữa lời Chúa làm ra phép lạ. Giờ đây, đã kết hôn với nhau và là cha mẹ của đông con cái, họ là những giáo dân dấn thân vào công cuộc Phúc Âm hóa. Sau khi đã chỉ ra các điều kiện của việc loan báo Kitô giáo nói về Đức Kitô, với lòng chân thành, như được Thiên Chúa thúc đẩy và dưới ánh mắt của Người, thánh Tông Đồ tự hỏi "Ai là người có khả năng thực hiện điều ấy?" 2Cr 2,16. Hiển nhiên không có ai cả. Chúng ta chứa đựng kho báu này trong những bình sành 2Cr 4,7. Nhưng chúng ta có thể cầu nguyện Lậy Chúa, xin đoái nhìn chiếc bình sành đáng thương này vì nó phải mang kho tàng lời Chúa; xin giữ con không thốt ra những lời vô ích khi nói về Chúa; xin cho con biết yêu thích lời Chúa để chúng con biết phân biệt với mọi lời khác, biết coi mọi lời khác là vô vị. Như Chúa đã hứa, xin hãy gieo nạn đói trên xứ này, “không phải đói bánh ăn, cũng không phải khát nước uống, mà là đói khát được nghe lời Chúa” Am 8,11. Link lãnh thổ Perea, ngày nay là Giođan, trên đỉnh đồi cao hơn mực nước Biển Chết 100m, sừng sững pháo đài nguy nga của Machareus. Đó là nơi Vua Hêrôđê Antipa bỏ tù Gioan Tẩy Giả x. Mc 6,17. [1] Trong ngục sâu lạnh lẽo và ẩm thấp đẽo trong đá, bóng tối và thinh lặng bao trùm. Gioan bị dày vò bởi suy nghĩ liên tục lặp đi lặp lại này thời gian trôi qua mà Giêsu vẫn chưa mặc khải mình rõ ràng như Gioan từng hy vọng. Gioan nhận được tin tức về những việc làm vĩ đại của Người x. Mt 11,2, thế nhưng dường như Giêsu không tỏ vẻ là Đấng Mêsia. Và khi dân chúng hỏi trực tiếp, Người vẫn lặng thinh. Chẳng lẽ Gioan đã lầm sao? Nhưng Gioan đã thấy mọi sự quá rõ ràng cơ mà! Gioan đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người x. Ga 1,32-43. Vì thế, Gioan gửi một vài môn đệ đi hỏi Giêsu “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Mt 11,3.Chúa Giêsu trả lời bằng một cách không thể ngờ. Thay vì đưa ra câu trả lời rõ ràng, Người hướng sự chú ý của họ đến những việc làm của Người “Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.” Mặc dù có chút ẩn ý, nhưng lời đáp của Đức Giêsu đủ rõ đối với những ai biết lời tiên tri trong Sách Thánh ám chỉ sự xuất hiện của Đấng Mêsia và Vương Quốc của Người. “Các vong nhân của Ngài sẽ sống lại, xác họ sẽ đứng lên!” Is 26,19. “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được” Is 35,5. Chúa Giêsu khích lệ Gioan hãy tin tưởng Người “Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” Mt 11,6.Trong bối cảnh ấy, chúng ta có thể thấy một sự tương đồng với những ai thấy khó có thể nhận ra tiếng Chúa nói trong lúc cầu nguyện. Khi chúng ta thấy chính mình trong tình huống như vậy, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy thay đổi hoàn toàn quan điểm của mình, từ bỏ lòng mong muốn của bản thân đối với những xác tín nhân loại mà bước vào cuộc phiêu lưu mầu nhiệm của Thiên Chúa, Đấng nói với chúng ta qua hành động và qua Thánh Kinh. Trong lời nói cuối của Chúa Giêsu - “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”, chúng ta khám phá lời mời gọi bền đỗ với lòng tin tưởng trong cầu nguyện, ngay cả đôi khi Chúa dường như không trả lời rõ ràng như ta mong động có thể phá vỡ “thinh lặng”Khi bắt đầu cầu nguyện, người ta thường đối mặt với sự “thinh lặng” bề ngoài của Thiên Chúa. “Tôi nói chuyện với Người, tôi kể cho Người nghe những lắng lo của tôi. Tôi hỏi Người về những việc nên làm, nhưng Người không trả lời tôi. Người chẳng nói gì với tôi cả.” Đây cũng là lời than thở của ông Gióp “Con kêu lên Ngài, nhưng Ngài không đáp lời, con trình diện Ngài, nhưng Ngài chẳng lưu tâm” Gióp 30,20. Thật dễ bối rối “Tôi vẫn nghe bảo rằng cầu nguyện là một cuộc đối thoại, nhưng Chúa chẳng bao giờ nói với tôi điều gì cả. Nếu Chúa nói chuyện với ai đó…, tại sao Người không nói với tôi? Tôi đang làm điều gì sai chăng?” Những hoài nghi này của người cầu nguyện đôi khi có thể dẫn đến cám dỗ mất lòng cậy trông. “Nếu Chúa không trả lời tôi, tại sao tôi phải cầu nguyện?” Và nếu sự thinh lặng này được hiểu là sự vắng mặt của Thiên Chúa, điều ấy thậm chí trở thành một cám dỗ nghịch lại đức tin “Nếu Chúa không nói với tôi, chắc Người cũng không tồn tại.”Chúng ta có thể nói gì để trả lời tất cả những câu hỏi trên? Trước hết, thật vô lý khi chối từ sự tồn tại của Thiên Chúa do sự im lặng bề ngoài của Người. Thiên Chúa có thể chọn im lặng vì một lý do nào đó, và điều ấy không ảnh hưởng đến sự tồn tại hay không tồn tại của Người, cũng như không ảnh hưởng đến tình yêu Người dành cho chúng ta. Tin tưởng Chúa – và tin tưởng vào lòng nhân lành của Người – là điều quyết định. Trong mọi hoàn cảnh, thật tốt để khẩn cầu Người, với tất cả niềm tin và tín thác “Lạy Thiên Chúa, xin đừng làm thinh; xin đừng nín lặng ngồi yên, lạy Thiên Chúa!” Tv 83,1-2Chúng ta không nên nghi ngờ khả năng lắng nghe tiếng Chúa của bản thân. Trái tim con người có khả năng cần thiết, với sự giúp đỡ của ân sủng, để nghe Chúa nói với ta, cho dù khả năng này bị lu mờ bởi tội nguyên tổ và tội cá nhân của ta. Chương đầu tiên trong Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có tựa đề “Con người có khả năng đón nhận Thiên Chúa.” Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói trong một buổi tiếp kiến chung “Con người, như truyền thống tư tưởng Kitô giáo vẫn nói, thì “ capax Dei ”, có khả năng nhận biết Thiên Chúa, và nhận lãnh hồng ân Người ban tặng. Thật vậy, được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người có thể sống trong mối tương quan cá vị với Thiên Chúa.” [2] Đó là mối tương quan cá vị có hình thức như một cuộc đối thoại bằng lời nói và hành động. [3] Và đôi khi chỉ bằng hành động, tương tự như trong tình yêu giữa con người với dụ, như ánh mắt nhìn nhau giữa hai người cũng có thể là một cuộc đối thoại thinh lặng có những cái nhìn nói lên điều gì đó thật rõ ràng; do đó cuộc đối thoại tin tưởng giữa ta với Chúa cũng có thể diễn ra theo cách thức này ta ngắm nhìn Chúa và nhận ra rằng Chúa đang nhìn ta. Như cách Chúa Giêsu nhìn Gioan, ánh nhìn đã thay đổi vĩnh viễn cuộc đời người môn đệ.” [4] Sách Giáo lý nói rằng “chiêm niệm là cái nhìn của đức tin.” [5] Và thường thì, với tình yêu và ánh sáng cho cuộc đời ta, một ánh nhìn có thể quan trọng và ý nghĩa hơn là một chuỗi dài lời nói. Thánh Josemaria, khi chia sẻ về niềm vui có từ đời sống chiêm niệm, đã nói rằng “linh hồn lại vỡ òa một lần nữa trong một bài ca, một bài ca mới, vì linh hồn cảm nhận và biết rằng nó đang đắm mình dưới ánh nhìn yêu thương của Thiên Chúa, suốt cả ngày dài.” [6] Là “những hành khất của Chúa,” [7] chúng ta khiêm tốn nài xin rằng, ngoài việc nhận biết chân lý, chúng ta cũng có thể “cảm” được rằng tình yêu Thiên Chúa luôn ngắm nhìn chúng nay chưa từng có ai nói năng như ông ấyThánh Têrêsa Calcutta nói rằng “Chúng ta thưa chuyện với Chúa trong khẩu nguyện; Chúa nói chuyện với chúng ta trong trí nguyện. Rồi Thiên Chúa đổ tràn đầy Người trong chúng ta.” [8] Đây là nỗ lực giải thích điều không thể giải thích bằng lời. Thực tế, cầu nguyện là một mầu nhiệm vĩ đại. Cuộc “gặp gỡ huyền bí” này giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện diễn ra theo nhiều cách thức khác nhau. Một vài cách thức khó phân loại và không thể hiểu hoặc giải thích trọn vẹn. Như Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nói về mầu nhiệm cầu nguyện “Chúng ta phải cảnh giác để khỏi bị lây nhiễm những não trạng của thế gian này, chẳng hạn có người cho rằng chỉ những gì lý trí và khoa học chứng minh được mới là chân lý, trong khi cầu nguyện là một mầu nhiệm vượt quá cuộc sống ý thức và vô thức của con người.” [9] Như Thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta thường lo lắng tìm kiếm sự thật dựa trên những minh chứng không phải lúc nào cũng có thể tìm thấy trong cõi siêu Thiên Chúa chọn để nói với linh hồn ta vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta, và chúng ta không bao giờ có thể thấu hiểu hoàn toàn được. “Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm, quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!” Tv 139, 6. Bảng chữ cái chúng ta đang sử dụng không phải là bảng chữ cái của Thiên Chúa, ngôn ngữ chúng ta dùng chẳng phải là ngôn ngữ của Người. Khi Thiên Chúa nói, Ngài không cần các dây thanh âm; chúng ta nghe tiếng Người không phải bằng đôi tai nhưng từ nơi sâu thẳm và huyền nhiệm nơi con người chúng ta. Nhiều khi chúng ta gọi đó là tiếng nói của con tim, hoặc là tiếng lương tâm. [10] Thiên Chúa nói với ta từ thực tế của Người, và đến với thực tại của ta. Một ngôi sao có tương quan với những vì sao khác không phải qua ngôn từ, nhưng bằng lực hấp dẫn. Thiên Chúa không cần nói với chúng ta bằng lời, mặc dù Người có thể làm thế. Người nói bằng những công trình của Người và bằng những hành động bí ẩn của Thánh thần trong tâm hồn ta, lay động trái tim ta, khuấy động cảm xúc và soi sáng trí hiểu của ta để nhẹ nhàng lôi cuốn ta đến với Người. Điều ấy có thể đã xảy ra ngay từ đầu nhưng chúng ta không nhận ra. Với thời gian, Chúa sẽ giúp chúng ta nhận ra hành động của Người trong ta. Chẳng hạn Người sẽ giúp ta kiên nhẫn hơn, thấu hiểu hơn, hoặc làm việc tốt hơn, hay coi trọng tình bạn hơn… Tóm lại, tình yêu ta dành cho Chúa sẽ ngày càng triển nở mạnh mẽ Lý Hội Thánh Công Giáo nói rằng, với một người cầu nguyện, “ơn đầu tiên Chúa ban là tâm hồn người ấy được biến đổi.” [11] Việc biến đổi này thường diễn ra chầm chậm, từng chút một, và nhiều khi không thể nhận ra, tuy nhiên hoàn toàn chắc chắn và chúng ta phải học cách nhận ra và tạ ơn vì điều ấy. Đó cũng là những gì mà Thánh Josemaria đã làm vào ngày 07/08/1931 “Hôm nay, Giáo phận cử hành lễ Chúa Hiển Dung. Khi dâng ý Lễ, cha đã ghi nhận sự biến đổi nội tâm mà Thiên Chúa đã ban cho cha trong những năm tháng cư trú tại ex-Court… và cha có thể nói là sự biến đổi ấy đã xảy ra mà không cần sự cộng tác của bản thân cha. Sau đó, cha nghĩ rằng cha lại quyết tâm dâng hiến trọn đời cha để chu toàn Ý Chúa.” [12] Việc nhận ra sự “biến đổi nội tâm” trong cầu nguyện là một trong những cách Chúa nói với chúng ta… và đó quả là một cách tuyệt diệu! Khi ấy, chúng ta hiểu ra điều những vệ binh Đền thờ nói với các thượng tế về Đức Giê-su “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy” Ga 7,46. Không ai có thể nói như Thiên Chúa bằng cách biến đổi con tim chúng Thiên Chúa là lời “sống động và hiện hữu” Dt 4,12. Lời ấy biến đổi chúng ta, và hành động của Thiên Chúa nơi tâm hồn ta vượt trên sự hiểu biết của ta. Như Thiên Chúa đã nói qua ngôn sứ Isaia “Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” Is 55, 9-11. Hiệu lực huyền diệu này là một lời mời gọi chúng ta triển nở trong khiêm tốn, đó là “nền tảng của cầu nguyện. Chỉ khi chúng ta khiêm tốn nhận ra rằng chúng ta không biết cách cầu nguyện sao cho nên’, chính lúc đó chúng ta sẵn sàng đón nhận một cách tự do hoa trái của cầu nguyện.” [13] Chúng ta sẵn sàng mở lòng mình trong tín thác cho hành động của Thiên tự do siêu phàm của Thiên ChúaThiên Chúa lên tiếng khi Người muốn. Chúng ta không để đặt giới hạn cho Chúa Thánh Thần. Bàn tay ta không thể điều khiển hành động của Người trong tâm hồn ta. Có lần, Thánh Josemaria nói rằng Chúa Kitô hiện diện trong nhà tạm “là Thiên Chúa lên tiếng khi Người muốn, vào lúc ta ít mong đợi nhất, và Người nói những điều cụ thể. Rồi Người thinh lặng, vì Người muốn ta đáp lại bằng lòng tin tưởng và trung tín.” [14] Vì chúng ta “đi vào cầu nguyện” không qua cửa lớn của các giác quan – thị giác, thính giác, cảm giác – nhưng “qua cửa hẹp của đức tin”, [15] thể hiện trong sự quan tâm và lòng kiên trì mà chúng ta đặt để vào thời gian cầu nguyện. Và dù chúng ta có thể không ngay lập tức nhận ra, nhưng lời cầu nguyện của chúng ta luôn sinh hoa ấy thường xảy ra với Đấng Sáng lập Opus Dei. Ví dụ, ngày 16/10/1931, cha bảo chúng tôi “Cha muốn cầu nguyện sau Thánh Lễ, trong ngôi thánh đường tĩnh mịch. Thế nhưng cha không thể cầu nguyện được. Trên đường Atocha, cha mua một tờ báo ABC, rồi lên xe điện. Cho đến lúc ấy, như cha viết những dòng này, cha không thể đọc được hơn một đoạn trong tờ báo ấy. Cha đột nhiên cảm nhận một lời cầu nguyện với cảm xúc dạt dào và nồng cháy dâng trào trong cha. Đó là lúc cha ở trong xe điện, trên đường về nhà.” [16] Thánh Josemaria đã cố gắng cầu nguyện trong một nơi tĩnh mịch. Thế nhưng, vài phút sau đó, giữa sự xô bồ và hối hả của chuyến xe đông đúc, khi bắt đầu đọc báo, Ngài mới được ân sủng Thiên Chúa cuốn lấy và trải nghiệm “lời cầu nguyện siêu phàm nhất” trong cuộc đời, như lời tường thuật của vị thánh khác cũng làm chứng về sự tự do của Thiên Chúa khi nói chuyện với tâm hồn bất cứ khi nào và bất kỳ nơi nào Người muốn. Ví dụ Thánh Têrêsa Avila kể trong quyển “Đời tự thuật” “Tôi tự cười mình và cảm thấy dễ chịu khi nhận ra rằng linh hồn có thể chìm sâu đến mức nào khi Thiên Chúa không hoạt động nơi ấy. Trong tình trạng đó, linh hồn nhận ra rõ ràng rằng trong linh hồn lúc ấy không có Chúa điều này không giống như những thử thách khắc nghiệt mà tôi đã nói là tôi từng trải nghiệm đôi lần. Linh hồn thu nhặt củi và tự mình làm tất cả những gì có thể, thế nhưng không tìm ra cách để thắp lên ngọn lửa của Tình yêu Thiên Chúa. Làn khói chỉ bay lên nhờ lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa mà thôi, điều ấy cho thấy là ngọn lửa không hoàn toàn bị dập tắt. Rồi Thiên Chúa sẽ trở lại và châm lên ngọn lửa, trong lúc linh hồn đang làm mình phát điên khi cố thổi bùng ngọn lửa và xếp thêm củi vào, vì mọi nỗ lực của linh hồn chỉ khiến ngọn lửa ngày càng lịm tắt. Tôi tin điều tuyệt vời nhất là linh hồn hoàn toàn từ bỏ thực tế rằng nếu chỉ một mình thì linh hồn chẳng thể làm được điều chi… và học hỏi bằng trải nghiệm rằng thật nhỏ bé những gì linh hồn có thể làm với chính mình.” [17]Trong thực tế, Thiên Chúa nói với chúng ta rất nhiều lần. Hoặc nói đúng hơn, Thiên Chúa không bao giờ ngừng nói với chúng ta trong mọi thời khắc. Theo cách nào đó, học cầu nguyện chính là học để nhận ra “giọng” của Chúa trong những việc của Người, giống như Chúa Giêsu đã giúp Gioan Tẩy Giả nhận ra. Chúa Thánh Thần không bao giờ ngừng hoạt động trong tâm hồn chúng ta. Như Thánh Phaolô đã nhắc nhớ các tín hữu Côrintô “không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa’, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” 1 Cr 12,3. Điều này làm chúng ta thấy bình an. Nhưng nếu ai đó đánh mất nhìn nhận về sự thật này thì có thể sẽ dễ nản lòng. “Một số người tìm kiếm Chúa qua cầu nguyện nhưng nhanh chóng thất vọng bởi lẽ họ không biết rằng lời cầu nguyện đến từ Chúa Thánh Thần và không đến từ chính họ.” [18] Để không bao giờ nản lòng khi cầu nguyện, chúng ta cần có một lòng tín thác vĩ đại nơi Chúa Thánh Thần và nơi những cách thức phong phú và nhiệm mầu Người hành động nơi linh hồn ta “Chuyện nước Thiên Chúa cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ất không biết.” Mc 4,26Jose Brage[1] X. Flavius Joseph, Khảo cổ Do Thái , 18, 5, 2[2] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tiếp kiến chung, 26/07/1998[3] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2567[4] Thánh Josemaria, ghi chép từ một buổi suy niệm, 09/01/1959; trong Khi Người nói với chúng ta lúc đi đường; tr. 87.[5] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2715[6] Bài giảng “Hướng về sự Thánh thiện”, trong Bạn Của Chúa , số 307[7] Thánh Âu-tinh, Bài giảng 56, 6, 9.[8] Thánh Têrêsa Calcutta, Không Tình yêu nào vĩ đại hơn , Thư viện Thế giới mới, tr. 5.[9] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2727[10] “Lương tâm là tâm điểm sâu lắng nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ GS 16.” Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1776[11] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2739[12] Thánh Josemaria, Ghi ch ép thân mật, số 217; trong Andres Vazquez de Prada, Đấng Sáng lập Opus Dei, Quyển 1, Nhà xuất Bản Scepter, 2001, tr. 287-288[13] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2559[14] Thánh Josemaria, Ghi ch ép trong một buổi họp mặt gia đình , 18/06/1972 Cronica, 2000, trang 243[15] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2656[16] Thánh Josemaria, Ghi chép thân mật, số 334; trong Andres Vazquez de Prada, Đấng Sáng lập Opus Dei , Quyển 1, Nhà xuất Bản Scepter, 2001, trang 294[17] Cuộc đời Thánh Têrêsa Giêsu , dịch bởi E. Allison Peers, Image Book, chương 17, trang 216-217.[18] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2726. CHÚA ôi, Ngài hiện hữu đến đời đời; Lời Ngài được vững lập trên trời. Thi Thiên 11989 Bạn biết rằng Chúa phán với chúng ta qua Lời Ngài. Chúng ta có thể lấy Lời Ngài nói lại cho Ngài nghe khi chúng ta cầu nguyện bằng cách lấy Lời Ngài để cầu nguyện. Có lẽ bạn chưa bao giờ nghe câu “Lấy Lời Chúa để cầu nguyện với Chúa” và bạn đang thắc mắc làm như thế nào. Tôi nghĩ việc lấy Lời Chúa để cầu nguyện, hay “Lấy Kinh Thánh để cầu nguyện” như một số người nói, là hình thức cầu nguyện đơn giản nhất sẵn có cho bất kỳ tín hữu nào. Tất cả những gì cần là đọc hay học thuộc Lời Chúa trong Kinh Thánh và cầu nguyện chúng theo một cách biến chúng là của cá nhân chúng ta hay áp dụng chúng cho ai đó khác. Tôi tin rằng cách tốt nhất để làm điều này là mở đầu câu Kinh Thánh thế này, “Chúa ơi, Lời Ngài nói chèn câu Kinh Thánh và con tin điều đó.” Nếu bạn đang cầu nguyện Giê-rê-mi 313 cho bản thân, thì bạn sẽ nói thế này “Chúa ơi, Lời Ngài nói rằng Ngài đã yêu thương con bằng tình yêu đời đời và bằng sự nhân từ Ngài đã kéo con đến. Con cảm ơn Ngài vì Ngài yêu thương con rất nhiều và vì Ngài tiếp tục kéo con đến gần Ngài hơn với sự nhân từ ấy. Chúa ơi, xin hãy giúp con biết rõ và nhận thức tình yêu của Ngài dành cho con.” Nếu bạn đang cầu nguyện cùng câu Kinh Thánh đó cho bạn của bạn là Thảo, người đã vật lộn để tin Chúa thật sự yêu thương cô, bạn sẽ nói thế này, “Chúa ơi, Lời Ngài nói rằng Ngài đã yêu Thảo bằng tình yêu đời đời và bằng sự nhân từ Ngài đã kéo Thảo đến. Chúa ơi, Ngài biết rằng gần đây Thảo đã không cảm thấy an ninh trong tình yêu của Ngài cho lắm, vì thế con xin Ngài gạt cảm xúc của bạn ấy bằng lẽ thật của lời hứa này.” Những lời hứa của Chúa là dành cho bạn; nó dành cho mỗi tín hữu-và Ngài thích khi chúng ta biết Lời Ngài và lấy Lời Ngài để cầu nguyện với Ngài. LỜI CHÚA CHO BẠN HÔM NAY Chúa yêu thương chính con người thật của bạn và Ngài sẽ giúp bạn trở thành điều Ngài muốn bạn trở thành.

theo lời chúa nói