Bài văn mẫu Cảm nghĩ về bài Phò giá về kinh dưới đây nhằm giúp các em cảm nhận được khát vọng hòa bình của dân tộc ta. Bên cạnh đó, bài văn mẫu này còn giúp các em trau dồi thêm vốn từ phong phú cho bản thân. Cảm nhận về bài Phò giá về kinh của Trần Quang Khải mẫu 4 Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải (1241-1294), con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc. Tham khảo thêm. Nêu cảm nghĩ về cánh đồng quê hương. Cảm nhận của em về bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải. Bình giảng bài ‘Tụng giá hoàn kinh sư’ của Trần Quang Khải. Video: Tinh thần yêu nước trong Phò giá về kinh của Trần Quang Khải. Tại sao nói bài Mở bài: Có thể nói không có gia đình là bất hạnh lớn nhất của cuộc đời người. Tất cả mọi suy nghĩ, mọi việc làm của con người, cuối cùng là để xây dựng một gia đình hành phúc. Một gia đình hạnh phúc, ở đó mọi người luôn dành cho nhau tình cảm chân thành và Cam nhan bai Pho gia ve kinh. Đề bài: Cảm nhận bài ‘Phò giá về kinh’ Bài làm Đất nước ta cho dù trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng trong lịch sử vẫn - Chia sẻ bài viết Cảm nhận bài ‘Phò giá về kinh’ mới nhất Vay Nhanh Fast Money. Cảm nhận bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải Mở bài Trần Quang Khải là vị dũng tướng có công công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Bài thơ PHÒ GIÁ VỀ KINH Tụng giá hoàn kinh sư là một trong những bài thơ xuất sắc, hiếm hoi còn để lại của Trần Quang Khải và của nền thi ca Lý-Trần Thân bài Đây là bài thơ ra đời trong giai đoạn lịch sử dân tộc thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của phong kiến phương Bắc đang trên đường vừa bảo vệ vừa củng cố, xây dựng một quốc gia tự chủ rất mực hào hùng. Đặc biệt bài thơ nhắc lại hai chiến thắng vang dội của quân và dân ta đời Trần năm 1285 tại bến Chương Dương và cửa Hàm Tử dưới sự chỉ huy của Thái sư Trần Quang khải góp phần xoay chuyển thế trận, tạo điều kiện cho ông hộ giá đưa vua Trần Nhân Tông về lại kinh thành Thăng Long Bài thơ được viết khi Trần Quang Khải đi đón hai vua Trần Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông về Thăng Long ngay sau khi chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương và giải phóng kinh đô 1285. Bài thơ ca ngợi hào khí chiến thắng oanh liệt của quân dân đời Trần, hào khí Đông A, khẳng định quyết tâm và khát vọng xây dựng nền thái bình muôn đời cho đất nước. “Tụng giá hoàn kinh sư” là bài thơ của một vị chủ tướng nói về những chiến công của quân và dân ta đã đạt được trong hai cuộc kháng chiến. Mà ông là người cũng có những đóng góp không nhỏ để lập nên những chiến công lớn lao, hiển hách đó. Hai câu thơ đầu bài thơ tập trung khắc hoạ nhũng chiến công lùng lẫy của quân ta Đoạt sóc Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Hai câu thơ đầu nhịp thơ khẩn trương, mạnh mẽ, chỉ có vẻn vẹn mười chữ nhưng lượng thông tin nén trong chúng chật ắp. Những động từ mạnh được đảo lên dầu câu thơ.’ đoạt, cầm đã diễn tả một cách sinh động thế chủ động áp đảo, đầy uy lực của quân đội nhà Trần trước kẻ thù. Trong cái thế vũ bão của quân dân ta, hình ảnh kẻ thù trờ nên bạc nhược, đáng khinh Hổ cách dùng của người Trung Quốc với thái độ khinh miệt. Hai câu thơ ngắn gọn đó có tói 4 tiếng nói về hai địa danh Chương Dương và Hàm Tử. Đó là những địa danh hào hùng gắn với những chiến công giòn giã làm đảo ngược tình thế. Mới ngày nào, hơn 50 vạn quân do Thoát Hoan cẩm đầu tràn sang như sóng dữ hòng nuốt chửng Đại Việt. Giặc từ hai phía kẹp lại như gọng kìm, từ Nam Quan đánh xuống, từ Chiêm Thành đánh ra. Vận nước như ngàn cân treo sợi tóc. Quân ta phải rút lui chiến lược. Nhưng sự đồng lòng của vua tôi nhà Trần, tài thao lược của các tướng sĩ đã làm thay đổi cục diện chiến trường. Tháng 4 năm Ất Dậu 1285, rồi tháng 6 năm đó, quân ta liên tiếp giáng đòn sấm sét xuống đầu quần giặc. Chiến công nối tiếp chiến công, niềm hân hoan chiến thắng vang lừng non sông. Trước mắt ta như hiện ra hình ảnh của đoàn quân tràn đầy khí thế, bước hành quân rầm rập, tung bừng ngọn cờ khải hoàn Ba quán hùng khí át sao Ngưu Phạm Ngũ Lão, Tỏ lòng. Câu thơ của Trần Quang Khải như một trang kí sự chân thực, hào hùng. Điều đặc biệt là tác giả không liệt kê các chiến thắng theo trình tự thời gian mà ông đã nhắc tới chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Trong lúc này tác giả và quân dân đời Trần đang sống trong không khí chiến thắng Chương Dương đang diễn ra. Từ niềm vui đó mới sống lại chiến thắng Hàm Tử trước khoảng hai tháng vì thế mà chiến tháng Chương Dương sau nhưng được ca ngợi trước. Hai địa danh này trở thành hai chiến công rực rỡ ở đời nhà Trần. Có lẽ không chi bởi trận Chương Dương có tính chất quyết định để giải phóng kinh đô mà còn bởi chiến thắng ấy vừa mới diễn ra, tính thời sự nóng hổi. Hơi thở của hào khí Đông A còn vang dội, niềm hân hoan, phấn khởi như đang truyền đến từng người. Ẩn sau cách kể khách quan của tác giả phải chăng còn là niềm tự hào và chút phấn chấn của riêng Trần Quang Khải khi chính ông góp sức vào sự nghiệp bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng ? Hai câu thơ cuối thể hiện khát vọng hòa bình như một lời động viên xây dựng, phát triển đất nước với niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời của đất nước Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử gian san. Đất nước đã sạch bóng quăn thù, nền thái bình đang mở ra một tương lai tươi sáng hơn cho dân tộc, nhưng tác giả vẫn không quên nhắc nhở về nhiệm vụ trước mắt và cũng là nhiệm vụ lâu dài Thái bình tu trí lực. Tu trí lực nghĩa gắng sức đem tài trì, đem sức người, sức của ra xây dựng lại đất nước ngày càng vững mạnh. Theo nhà thơ, sự bền vững và thịnh trị của dân tộc không phải tự nhiên mà có, mà nó là kết quả phấn đấu không ngừng của toàn thể nhân dân. Điều này bộc lộ tầm nhìn xa trông rộng của một nhà chiến lược lớn Trần Quang Khải. Ông đã không “ngủ quên” trong chiến thắng mà chính lòng tự hào về những chiến công đạt được ngày hôm nay đã thôi thúc ý chí, quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Lời thơ của Trần Quang Khải nhắn nhủ tới mỗi chúng ta bài học cảnh giác hết sức sáu sắc. Không những thế lời thơ còn là lời khích lê, động viên, lời truyền gửi tới mỗi chúng ta niềm tin vào sức mạnh tự cường sẽ xây dựng “non sông nghìn thuở vững âu vàng” Trần Nhân Tông, Tức sự. Phải là người rất thông minh, tài hoa và có tấm lòng yêu nước thương dân cao cả, Trần Quang Khải mới viết nên những vần thơ sâu xa, lí thú đến như vậy. Bài thơ mang tính thời sự nóng hổi nhưng lại mang ý nghĩa lâu bền bởi bài thơ không chỉ chứa dựng hào khí chiến đấu và khát vọng hoà bình của cha ống ta dời nhà Trần, mà đó cũng là hào khí và khát vọng muôn đời của dân tộc ta trong mọi thời đại. Ý tưởng và suy nghĩ đó xuất phát từ đáy lòng, từ trái tim yêu nước và hùng khí của một nhà quý tộc tôn thất, vị tướng lĩnh tài ba, một nhà ngoại giao, một nhà chính trị xuất sắc đầu đời Trần. Phò giá về kinh biểu đạt ý tưởng lớn lao, rõ ràng theo kiểu nói cô đúc, giọng chắc nịch, không văn hoa. Cảm xúc trữ tình được ẩn chứa bên trong ý tưởng. Bài thơ được đánh giá là “khúc ca khải hoàn” ca ngợi hào khí chiến thắng oanh liệt của quân dân đời Trần trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Bài thơ dử dụng các động từ mạnh trong việc miêu tả hai chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử. Câu trên đối xứng với câu dưới về thanh, nhịp, ý. Giọng điệu, âm hưởng thơ hùng hồn, mạnh mẽ phản ánh chân thực hào khí Đông A. Kết bài Bài thơ bộc lộ niềm sảng khoái của người chiến thắng, thể hiện hào khí Đông A của thời đại nhưng lại không mang niềm vui an lạc. Vị chiến tướng chưa kịp nghĩ ngơi đã lo đến nhiệm vụ trước mắt cũng là kế sách lâu dài cho vương triều, cho đất nước. Bài thơ chỉ có hai mươi chữ nhưng đã vừa bô’ cáo được thành quả thời kỳ chiến tranh giữ nước lại vừa đặt ra nhiệm vụ trong hòa bình. Trần Quang Khải là một chiến tướng đồng thời là một nhà chiến lược”. III. LUYỆN TẬP Câu 1 Trả lời ngắn gọn. + Bài thơ “Phò giá về kinh” viết theo thề thơ nào? + Bài thơ tái hiện chiến thắng nào trong lịch sử dân tộc? + Bài thơ “Phò giá về kinh” được đánh giá là gì? + Tình cảm và thái độ của tác giả được thể hiện trong bài thơ là gì? + Biện pháp nghệ thuật nào đã dược sử dụng trong hai câu thơ đầu bài thơ? Câu 2 Cách đưa tin chiến thắng trong hai câu thơ đầu bài thơ có gì đặc biệt? Tại sao tác giả lại sử dụng cách đó? Câu 3 Hai câu thơ cuối, tác giả đã gửi gắm điều gì? Qua đó, em nhận xét gì về tầm tư tưởng của nhà thơ? Câu 4 Hào khí Đông A được thể hiện như thế nào qua bài tha Tụng giá hoàn kinh sư? Câu 5 Điểm giống và khác nhau giữa bài thơ “Sông núi nước Nam” và “Phò giá về kinh”. Giống nhau – Đều diễn đạt ý tưởng và cách nói chắc nịch, cô đúc trong đó ý tưởng và cảm xúc hoà làm một. – Đều thể hiện bản lĩnh khí phách hào hùng của dân tộc ta. Một bài là nêu cao chân lí vĩnh viễn, thiêng liêng Nước Việt Nam là của người Việt Nam, kẻ thù xâm phạm tất sẽ bị bại vong. Một bài là thể hiện khí phách hào hùng dân tộc, khát vọng xây dựng và phát triển cuộc sống hoà bình, niềm tin vào sự bền vững muôn đời của đất nước. Khác nhau Bài 1 viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài 2 viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Dàn ý1. Mở bài Giới thiệu vài nét về tác giả Trần Quang Khải Là người "văn võ song toàn", không chỉ có công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mông - Nguyên mà còn là nhà thơ với những bài thơ đặc sắc Giới thiệu vài nét về Phò giá về kinh Tụng giá hòa kinh sư và nêu vấn đề cần nghị luận Tinh thần yêu nước2. Thân bàiHai câu thơ đầuTinh thần yêu nước thể hiện trong niềm vui, niềm tự hào ngây ngất khi tác giả cất lên bài ca chiến thắng "Đoạt sáo... Hàm Tử quan" Chương Dương... quân thù => Lời thông báo, tổng kết về chiến thắng cô đọng, hàm súc, đó cũng chính là bài ca của lòng yêu nước được thử thách trong khói lửa chiến tranhHai câu thơ sau Tinh thần yêu nước biểu hiện qua khát vọng và cái nhìn hướng tới tương lai "Thái bình... giang san" Thái bình... ngàn thu=> Ý thơ hào hùng, biểu hiện của lòng yêu quê hương đất nước, khát vọng cao cả, trí tuệ, sự sáng suốt của vị tướng tài ba=> Bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng3. Kết bài Khẳng định lại nội dung tư tưởng tác phẩm. Nêu suy nghĩ, đánh giá của bản thân. Bài làmThượng tướng thái sư Trần Quang Khải 1241-1294, con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc. Trần Quang Khải làm thơ không nhiều, nhưng chỉ cần một bài như Phò giá về kinh Tụng giá hoàn kinh sư cũng đủ để thành một tên tuổi. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của vinh quang chiến thắng. Và tác giả của nó, một vị tướng lỗi lạc, mà tên tuổi đã từng phải 10 phen khiến quân thù phải kinh hồn bạt vía, người vừa lập công lớn trong chiến trận, nay kiêu hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đô trong khúc khải hoàn ca của dân tộc. Tức cảnh sinh tình. Trong hào quang của chiến thắng, tâm hồn vị tướng- nhà thơ của chúng ta bỗng dạt dào cảm hứng thi ca, kết tinh thành những vần thơ thật đẹpChương Dương cướp giáo giặc,Hàm tử bắt quân bình nên gắng nước ấy ngàn thu.Trần Trọng Kim dịch Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngũ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc nịch. Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng caChương Dương cướp giáo giặc,Hàm Tử bắt quân thù. Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1285. Đối với quân dân nhà Trần lúc đó, chỉ cần nhắc đến cái tên Chương Dương-Hàm Tử cũng đã đủ thấy nức lòng. Đặc biệt, đối với thượng tướng Trần Quang Khải, người trực tiếp chỉ huy và lập nên chiến công trong trận Chương Dương, cũng là người góp phần hỗ trợ đắc lực cho Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, thì càng thêm xao xuyến, bồi hồi. Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó. Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khácThái bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn thu. Vẫn với hai câu thơ ngắn gọn, chắc nịch mà lại chất chứa cảm xúc, tâm trạng và bao nỗi niềm suy tư. Vị tướng thắng trận mới đang trên đường trở về kinh đô, chưa kịp nghỉ ngơi chứ đừng nói tới việc hưởng thụ chiến công, đã lo nghĩ cho đất nước, những mong một nền thái bình muôn thuở cho ngàn đời con cháu mai sau. Thật cảm động và đáng kính phục! Tuy nhiên, Trần Quang Khải cảm nhận sâu sắc nền thái bình ấy đâu phải cứ mong là có. Để có nó, cần có sự chung lòng, chung sức, với bao tâm huyết tu trí lực của triều đình và trăm họ, trong đó có sự gắng sức của chính bản thân ông. Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay. Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời. Hướng dẫn Đề bài Phat bieu cam nghi ve bai tho Pho gia ve kinh. Anh chị hãy phát biểu cảm nghĩ về bài thơ phò giá về kinh của Nguyễn Quang Khải. Mở bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Trần Quang Khải 1241-1294 con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông và ông được phong chức thượng tướng,có công rất lớn trong cuộc kháng chiến chống mông nguyên xâm là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc có những vần thơ “sâu xa lí thú” không chỉ vậy ông còn là võ tướng kiệt xuất. Bài thơ phò giá về kinh được ông sáng tác trong hoàn cảnh ông đi đón thái thượng hoàng Trần Thánh Tông về Thăng Long,ngay sau khi chiến thắng Chương Dương,Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm thơ được tác giả viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt đường luật có cách gieo vần tương tự thất ngôn tứ tuyệt. Thân bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Hai câu thơ “Đoạt sáo Chương Dương độ, Hảm Tử bắt quân thù” Chương Dương là bến sông nằm ở hữu ngạn sông hồng,thuộc huyện Thường Tín tỉnh Hà thắng Chương Dương diễn ra vào tháng sáu năm Ất Dậu do chính Trần Quang Khải chỉ từ “ Hàm Tử” là một địa điểm ở tả ngạn sông hồng thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ của Trần Quang Khải. Đó là những trận thủy chiến oanh liệt trên chiến tuyến sông Hàm tử diễn ra vào tháng tư khoảng hai tháng sau Trần Quang Khải đại thắng giặc ngoại xâm quân Nguyên –mông tại Chương Dương,hàng vạn tên lính bị tiêu diệt thì bị bắt làm tù ta vừa đẩy lùi được giặc ngoại xâm vừa chiếm được nhiều thuyền,vũ khí và lương thực của quân giặc. Cụm từ “Đoạt sáo” và “Cầm hồ” được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như nốt nhấn trong khúc ca đại thơ hào hùng oanh liệt thể hiện được khí thế hào hùng của dân tộc ta lúc bấy vua quan lại trong triều đình đến nhân dân ai cũng hả hê vui mừng vì cuộc đại thắng. Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt kết hợp với nhịp thơ nhanh,gấp và các động từ biểu thị tác động mạnh mẽ dứt khoát nhưđoạt,cướp lấy thể hiện nhịp thơ sôi động dồn dập của trận chiến khiến cho người đọc có thể hình dung ra được khí thế của trận chiến ấy oanh liệt biết nhường hè năm Ất Dậu là một mốc son lịch sử trọng đại trong chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta,hiện thực ấy đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hào hùng tráng khiến bài thơ trở nên hào hùng mang đậm chất tính hùng ca. Trong đoạn thơ tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật là liệt kê và phép đối để làm nổi bật lên hai sự kiện lịch sử mang tầm vóc chiến chiến thắng Chương Dương độ và Hàm Tử quan đã làm thay đổi cục diện trên chiến trường của dân ta từ chỗ rút lui chiến lược thành quân ta đã tiến lên phản công như vũ trận chiến quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu sang xâm lược nước ta khi ấy kinh thành Thăng long chìm trong khói lửa ngút trời vận nước ta lúc bấy giờ đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng với tài thao lược và tài cầm quân của những vị anh hùng quân ta đã lấy đoản binh chế trường trận lấy yếu đánh hai trận chiến Chương Dương và Hàm tử đã giáng xuống đầu bọn giặc phương bắc những bài học nhớ đời về tinh thần chiến đấu của dân tộc ta,kinh thành Thăng long được giải phóng. Trần quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã để lại dấu ấn trong lịch sử cái tên Chương Dương và Hàm Tử đã in sâu vào lịch sử chống giặc ngoại xâm,lịch sử văn chương như một trang chói lọi,để viết được những vần thơ hay như vậy thì ông phải là người trong cuộc đứng ở một góc độ nào đấy hơn cả là ông ó lòng yêu thương quê hương đất nước thì ông mới có thể viết ra được những vần thơ hay như thế. Hai câu thơ tiếp Thái bình tu chí lực, Vạn cổ thử gian san. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu Hai câu thơ trên là lời của vị tướng muốn nói với dân hãy tập trung vào xây dựng phát triển non sông đất nước hòa bình và tin tưởng vào sự bền vững muôn đời của Tổ vừa từ chiến trường trở về áo còn vương mùi thuốc súng chưa kịp nghỉ ngơi ông đã nghĩ ngay đến việc trước mắt cũng như lên kế sách lâu dài cho quốc gia ông nhấn mạnh “trong thời bình mọi người cần phải dốc sức vào xây dựng non sông và phát triển đất nước,dân giàu nước mạnh thì mới đánh tan được tham vọng ngông cuồng của giặc ngoại xâm đồng thời chủ quyền độc lập mới được lâu dài”.Điều đó chứng tỏ ông vừa là một vị tướng tài ba vừa có lòng thương dân một lòng hướng tới non sông đất nước,luôn đặt trách nhiệm với dân,với nước lên hàng đầu. Kết bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Với hình thức diễn đạt cô đúc,dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng,bài thơ “Phò giá về kinh” đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. TỪ KHÓA TÌM KIẾM Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Cảm nghĩ của em về bài thơ Phò giá về kinh Cảm nghĩ của anh chị về bài thơ Phò giá về kinh Cam nghi ve bai tho Pho gia ve kinh Cam nghi cua em ve bai tho Pho gia ve kinh Theo Topics Cảm nghĩ cảm nghĩ về bà chiến thắng hòa bình khát vọng mùa hè phát biểu cảm nghĩ Phò giá về kinh quê hương Trần Quang Khải Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh - Hướng dẫn lập dàn ý và bài văn mẫu tham khảo phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm Phò giá về kinh của Trần Quang biểu cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinhLập dàn ý1. Mở bài- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm- Trần Quang Khải 1241-1294, một vị danh tướng tài ba đời Trần, một nhà thơ lớn của dân tộc, các sáng tác của ông thường hàm xúc, ý nghĩa và để lại giá trị vô cùng to lớn trong nền thơ ca dân tộc. Phò giá về kinh chính là một trong những bài thơ đặc sắc trong kho tàng thơ ca của Trần Quang Khải. Bài thơ được sáng tác trong lúc vua và quân dân nhà Trần giành chiến thắng lấy lại được kinh thành Thăng Long và trên đường trở về kinh đô.– Bài thơ được Trần Quang Khải viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với lời thơ giản dị, nhưng đầy hàm xúc ý nghĩa bằng chữ Hán, bản dịch của Trần Trọng Kim được nhiều người biết đến Thân bài– Hai câu thơ đầu+ Cảm xúc chiến thắng trước một đội quân giặc ngoại xâm được đánh giá là vô cùng hung hãn khiến cho Trần Quang Khải không khỏi xúc động, không miêu tả quá dài dòng, chỉ bốn câu thơ thôi cũng đã đúc kết được sự tự hào và tâm tư của vị tướng kiệt xuất.+ Hai câu thơ đầu và hai chiến thắng lẫy lừng chấn động đất trời, để đánh dấu trong việc đánh tan giặc Nguyên đó là chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử vào năm 1285.+ Đối với tình hình quân và dân nhà Trần lúc bấy giờ, chỉ nghe đến cái tên Chương Dương thôi cũng đã vô cùng tự hào và cảm phục trước ý chí chiến đấu của quân ta dưới sự chỉ huy vô cùng sáng suốt của danh tướng Trần Quang Khải.+ Mặc dù không miêu tả lại cảnh chiến tranh với gươm đao, với sự ác liệt của cuộc chiến mà tác giả chỉ kể lại các sự kiện, nhưng vẫn đưa người đọc như đang sống giữa cuộc chiến, sống giữa khi thế hào hùng và cảm giác giác chiến thắng, khải hoàn đầy khí thế của vua và dân nhà Trần.=> Chiến thắng Chương Dương ta đã đánh bại được quân thù đến trận Hàm Tử ta đã bắt sống được cả tướng giặc, chính điều này đã chứng minh được tuy rằng từ ngữ giản dị nhưng vô cùng mạnh mẽ rắn rỏi.– Hai câu thơ cuối+ Trần Quang Khải muốn gửi đến toàn dân tộc một điều rằng nền thái bình đó chỉ được tạo ra khi mà toàn thể dân tộc đồng lòng, đoàn kết dồn hết lòng dựng xây và bảo vệ đất nước mà thôi.+ Với hai câu thơ vô cùng ngắn gọn nhưng súc tích, chất chứa nhiều xúc cảm và tâm tư của nhà thơ.+ Trần Quang Khải không đắm chìm trong chiến thắng ông đã có những lo nghĩ cho tương lai đất nước, ông muốn cuộc sống hòa bình, đất nước còn tồn tại và lưu danh đến muôn đời sau “Non nước ấy ngàn thu”.=> Nhưng nền thái bình đâu phải tự dưng mà có được, nó cần được sự đồng lòng, đồng sức, đoàn kết với lòng tự hào và lòng tự hào đất nước nồng nàn, đấy chính là nỗi niềm của Trần Quang Kết bài- Bài thơ với lời thơ ngắn gọn nhẹ nhàng, câu từ gần gũi không khoa trương phóng đại đã đem đến cho người đọc về một tinh thần dân tộc vô cùng hào hùng và chiến thắng vẻ vang oanh liệt, giá trị của bài thơ vẫn còn vang vọng cho đến bây giờ, đây chính là kim chỉ nam để mỗi chúng ta cần tu dưỡng tài năng đạo đức cống hiến cho đất nước.>>> Xem thêm Hướng dẫn soạn bài Phò giá về kinhTop 2 bài văn hay trình bày cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinhCảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh - Bài mẫu 1Trần Quang Khải 1241 - 1294 là con thứ ba của vua Trần Thánh Tông. Ông được phong chức thượng tướng vì có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông 1284 - 1287 và là một trong những anh hùng đã đem tài thao lược làm nên chiến công Chương Dương, Hàm Tử lừng lẫy muôn đời. Trần Quang Khải không chỉ là một võ tướng kiệt xuất mà còn là một thi sĩ tài thơ Phò giá về kinh Tụng giá hoàn kinh sư được sáng tác trong hoàn cảnh thượng tướng cùng đoàn tùy tùng đi đón hai vua Trần vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông về Thăng Long sau khi kinh đô được giải phóng. Hình thức bài thơ tuy ngắn gọn, cô đúc nhưng đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. Tác giả đã ghi lại hai chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt vào xuân - hè năm Ất Dậu sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Chương Dương cướp giáo giặcHàm Tử bắt quân thù.Chương Dương là bến sông nằm ở phía hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội. Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu 1285 do Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy. Hàm Tử là địa danh ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên. Chiến thắng Hàm Tử vào tháng 4 cùng năm do tướng Trần Nhật Duật lãnh đạo cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang là những trận thủy chiến dữ dội nổ ra tren chiến tuyến sông Hồng. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4, tướng Trần Nhật Duật chém được Toa Đô. Hai tháng sau, Trần Quang Khải đại thắng giặc Nguyên - Mông tại Chương Dương. Hàng vạn tên lính xâm lược bị tiêu diệt, hoặc bị bắt làm tù binh. Quân ta chiếm được nhiều chiến thuyền, vũ khí và lương thảo của cụm từ Đoạt sáo cướp giáo và Cầm Hồ bắt giặc được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như những nốt nhấn trong khúc ca đại thắng. Giọng thơ sảng khoái, hào hùng, phản ánh khí thế bừng bừng của dân tộc ta thời ấy. Từ vua quan, tướng sĩ đến dân chúng ai cũng hả hê, sung sướng, tự câu thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với nhịp thơ nhanh, gấp và các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ, dứt khoát đoạt cướp lấy; cầm bắt thể hiện nhịp độ dồn dập, sôi động, quyết liệt của chiến trận. Tác giả không nói nhiều về những chiến công và cũng không tỏ ra say sưa với chiến thắng nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được niềm phấn khởi, kiêu hãnh vô bờ toát lên từ âm hưởng của bài hè năm Ất Dậu là một mốc son trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Hiện thực sôi động đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hùng tráng khiến bài thơ mang đậm phong vị anh hùng thơ đã sử dụng thủ pháp liệt kê và phép đói để làm nổi bật hai sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược. Chiến thắng Chương Dương diễn ra sau nhưng lại được nói đến trước là do nhà thơ đang sống trong không khí hào hùng của chiến thắng Chương Dương vừa diễn ra. Kế đó, nhà thơ làm sống lại không khí sôi động của chiến thắng Hàm Tử trước đó chưa chiến công Chương Dương độ và Hàm Tử quan đã làm thay đổi cục diện thế trận của quân ta. Từ chỗ rút lui theo chiến lược, quân ta đã tiến lên phản công như vũ bão. Mới ngày nào, 50 vạn quân Nguyên do tướng Thoát Hoan cầm đầu ồ ạt sang cướp phá nước ta. Kinh thành Thăng Long chìm trong khói lửa ngút trời. Hai mũi tấn công của giặc từ Nam Quan đánh xuống, từ Chiêm Thành đánh ra, kẹp lại như hai gọng kìm sắt. Vận nước lúc đó như "chỉ mành treo chuông" nhưng với tài thao lược của các vị danh tướng, quân ta đã lấy đoản binh chế trường trận, lấy yếu đánh mạnh. Với chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử, quân ta đã giáng sấm sét xuống đầu lũ giặc phương Bắc hung hăng, ngạo mạn. Kinh thành Thăng Long được giải phóng. Quân xâm lược đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi nước Quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt thân yêu vào thơ ca. Cái tên Chương Dương và Hàm Tử đã in đậm vào lịch sử chống ngoại xâm, vào lịch sử văn chương như một dấu son chói lọi. Phải là người trong cuộc, tha thiết yêu non sông gấm vóc của đất nước mình, Trần Quang Khải mới viết được những câu thơ hào hùng đến thế!Hai câu thơ sauThái bình tu nỗ lực,Vạn cổ thử giang san. Thái bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn thu.Đây là lời vị thượng tướng động viên dân chúng hãy bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình và tin tưởng sắt đá vào sự bền vững muôn đời của Tổ tướng Trần Quang Khải vừa từ chiến trường trở về, áo bào còn vương khói súng, chưa kịp nghỉ ngơi đã lo ngay đến nhiệm vụ trước mắt cũng như kế sách lâu dài cho quốc gia, dân tộc. Ông nhấn mạnh Trong thời bình, mọi người cần phải dốc hết sức lực để xây dựng non sông. Nước mạnh, dân giàu thì mới đánh tan được tham vọng ngông cuồng của giặc ngoại xâm, đồng thời chủ quyền độc lập mới được giữ gìn lâu dài. Điều đó chứng tỏ Trần quang Khải vừa là một chiến tướng, vừa là một vị đại thần có tài kinh bang tế thế, luôn đặt trách nhiệm với dân, với nước lên hàng ngữ bài thơ Phò giá về kinh rất giản dị nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong thật lớn lao. Khi Tổ quốc đứng trước họa xâm lăng thì vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức Trần Quốc Tuấn. Trong hòa bình, từ vua quan đến tướng sĩ, từ vương hầu đến chúng dân, ai ai cũng phải tu trí lực để đất nước Đại Việt được trường tồn. Câu thơ hàm chứa một tư tưởng vĩ đại, cho thấy tầm nhìn xa rộng và sáng suốt của Trần Quang bài thơ ra đời cách đây gần tám trăm năm nhưng cho đến nay ý nghĩa của nó vẫn còn nguyên vẹn. Bài học rút ra từ bài thơ là nếu chúng ta không chăm lo xây dựng đất nước hùng mạnh, dân trí mở mang thì làm sao chống lại được ý đồ xâm lược, đồng hóa của các thế lực phản động nước ngoài đang rình rập, nhòm ngó đất nước ta?!Tương tự bài Sông núi nước Nam, bài thơ Phò giá về kinh cũng thể hiện lòng yêu nước theo kiểu mộc mạc, tự nhiên nhưng mạnh mẽ, hào hùng. Hai bài thơ đều phản ánh bản kĩnh vững vàng, khí phách hiên nagng của dân tộc ta. Một bài nêu cao chủ quyền độc lập thiêng liêng, khẳng định nước Nam là của vua Nam, không kẻ nào được phép xâm phạm, nếu cố tình xâm phạm tất sẽ chuốc lấy bại vong. Một bài thể hiện khí thế hào hùng và bày tỏ khát vọng xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình với niềm tin đất nước sẽ bền vững nghìn Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một kiệt tác trong thơ văn cổ. Ý thơ hàm súc, cô đọng; ngôn ngữ thơ giản dị, gợi cảm. Bài thơ thể hiện niềm tự hào to lớn về sức mạnh chiến thắng của dân tộc ta và làm sống lại những năm tháng hào hùng đánh đuổi quân xâm lược Nguyên - Mông. Đồng thời nó nhắc nhở mỗi người Việt Nam phải biết nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước thanh bình, giàu đẹp, bền vững muôn tích bài thơ Phò giá về kinhCảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh - Bài mẫu 2Việt nam là đất nước có lịch sử dân tộc đáng tự hào. Trải qua biết bao thăng trầm trong lịch sử, đã có những lúc đất nước ta bị xâm lược, đô hộ cả ngàn năm. Thế nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì toàn dân tộc Việt Nam vẫn mang ý chí mạnh mẽ, quyết tâm không bao giờ chịu làm nô lệ của kẻ khác. Và trong lịch sử đầy chói lọi ấy, “phò giá về kinh” tụng giá hoàn kinh sư của thượng tướng Trần Quang Khải hiện lên như một viên ngọc sáng - là khúc ca khải hoàn đầu tiên của dân tộc. Đây là bài thơ đầu tiên trong lịch sử được sáng tác ra để nói lên ý chí tự hào dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu tranh và đã giành được thắng lợi trước quân Mông Nguyên.“Phò giá về kinh” được sáng tác trong hoàn cảnh tướng Trần Quang Khải được vinh dự phò giá nhà vua để trở về kinh thành sau kế hoạch “vườn không nhà trống“ của vua tôi nhà Trần chống lại quân xâm lược. Mở đầu bài thơ hai câu thơ nói lên thắng lợi hùng tráng của quân dân ta trong chiến đấu với quân xâm sáo chương dương độCầm Hồ Hàm Tử quanHayChương Dương cướp giáo giặcHàm Tử bắt quân thùMở đầu là hình ảnh của những địa điểm diễn ra những trận đánh lớn mà tại đó, quân và dân ta đã đạt được những thắng lợi vang dội. Tại sao lại là hai địa điểm Chương Dương và hàm Tử. Để giải thích điều này, chúng ta hãy cùng nhau quay lại lịch sử của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên đời Trần, quân và dân ta đã giành được rất nhiều thắng lợi trong nhiều chiến dịch, nổi bật nhất trong số đó là trận chiến trên sông bạch Đằng. thế nhưng tướng Trần Quang Khải lại nhắc tới trận Chương Dương và hàm Tử trước. Bởi lẽ, đây là hai trận chiến cuối cùng mang tính quyết định chiến thắng toàn bộ quân xâm lược. Trước đó, để đánh lừa quân địch, toàn bộ kinh thành đã phải sơ tán đi tới khu vực nông thôn theo kế sách “vườn không nhà trống”. có lẽ thế nên khi được vinh dự phò tá nhà vua trở về kinh thành, tướng Trần Quang khải mới không thể đè nén được xúc động và thể hiện sự tự hào, vui sướng cho chiến thắng của nhân dân dù trên thực tế, trận chiến Hàm Tử có trước rồi mới tới trận chiến Chương Dương. Thế nhưng vị tướng tài ba lại nhắc theo thứ tự ngược lại. Đây là những chi tiết hết sức thú vị. Tìm hiểu dòng lịch sử, chúng ta biết rằng ở trận chiến Hàm Tử, Trần Quang Khải là người tham gia hỗ trợ còn Trần Nhật Duật mới là vị tướng chỉ huy chính. Còn trong trận chiến thứ hai, tức là trận chiến Chương Dương thì tướng Trần Quang Khải là người trực tiếp thống lĩnh toàn bộ quân dân chiến đấu một trận chiến khốc liệt nhưng cũng rất vẻ vang mang lại chiến thắng toàn cục cho đất nước ta. Niềm vui chiến thắng cùng hòa nhịp với niềm vui được phò giá nhà vua trở về như khiến sự vui tươi, hãnh diện và tự hào của vị tướng như được nhân đôi. Ông liên tưởng những sự kiện trên theo thời gian từ gần tới xa. Đầu tiên, ông nghĩ ngay tới trận đánh Chương Dương rồi sau đó như ngẫm lại mới nhắc tới trận Hàm Tử. Tất cả những chí khí của quân ta được ông đúc kết trong những chữ như “đoạt sáo” cướp giáo, "cầm hồ” bắt quân Hồ. Chỉ với hai từ nhưng đã thể hiện hết sức rõ ràng những hành động của chúng ta. “Đoạt” là lấy hắn được về phía bên mình qua những cuộc đấu tranh với người khác. Bởi thế “đoạt sáo” không những làm nổi bật hình ảnh dũng cảm chiến đấu của nhân dân ta mà còn thể hiện sự tích cực, chính nghĩa. Chúng ta không đi cướp, chúng ta chỉ đòi lại những gì là của chúng ta mà thôi, không thể để cho kẻ thù lấy đi và chèn ép được. Do đó, bản dịch nghĩa sử dụng từ “cướp giáo" phần nào đã làm mất đi ý nghĩa vốn có của từ ngữ gốc do tác giả sáng tác. Ở Chương Dương, chúng ta đã giành được vũ khí của quân giặc, thì ở trận chiến Hàm Tử, chúng ta đã bắt sống được tướng địch. Mỗi lần đấu tranh chúng ta lại lấy được những lợi phẩm khác nhau, thế nhưng tổng kết lại thì đó lại là thắng lợi hoàn toàn, thắng lợi toàn cục và quân địch phải nhận lấy kết quả thất bại ê chề. Những câu thơ không hề có những hình ảnh đổ máu, chém giết đã làm cho tinh thần chính nghĩa của những câu thơ như thêm phần sâu sắc và cũng là khẳng định lại mục đích chiến đấu của nhân dân ta là bảo vệ bờ cõi chứ không hề đi cướp bóc, gây mất đoàn kết giữa các nước với nhau. Những ý thơ với mạch thơ nhanh, gọn cũng là nét tiêu biểu cho những khúc ca khải hoàn sau bình tu trí lựcVạn cổ thử giang sanHay Thái bình nên gắng sứcNon nước ấy ngàn thuNếu như hai câu đầu của đoạn thơ chỉ là hình ảnh của những trận chiến thắng oanh liệt của dân tộc thì hai câu tiếp theo chính là lời tự nhắc nhở bản thân mình của cả quân và dân tộc chúng ta. Lần đầu tiên mà ý chí của một người đã được nâng lên thành ý chí của nhiều người. Tác giả cho rằng, chiến tranh sử dụng vũ lực chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Còn trau dồi phẩm chất, đạo đức và trí tuệ của toàn dân tộc mới là cái gốc, cái cội nguồn để cả đất nước có chung một tinh thần, ý chí sắt đá mà không một đất nước nào có thể xâm phạm được. Có thể thấy, tướng Trần Quang Khải là một trong những người có ánh nhìn rất sâu xa, biết khi nào nên vận dụng những gì để giúp cho đất nước mãi duy trì được cảnh thái bài thơ trên, ta càng thêm yêu lịch sử của dân tộc với những nét thăng trầm nhưng lại luôn luôn mang ý chí kiên cường, bền bỉ, không chịu nhục trước bất cứ một điều nguy hiểm nào. Đạo lí ấy không chỉ được vận dụng trong chiến tranh ngày xưa mà còn được áp dụng cho tới tận bây Thầy cô xin giới thiệu 50 bài văn Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh hay nhất, chọn lọc giúp học sinh lớp 7 viết các bài tập làm văn hay hơn. Tài liệu gồm có các nội dung chính sau Mục lục 1 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh2 Dàn ý Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh3 Video Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh4 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 15 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 26 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 3 7 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 4 8 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 5 9 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 6 10 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 7 11 Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 8 Dàn ý Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh I. Mở bài Giới thiệu khái quát về tác giả Trần Quang Khải, tác phẩm Phò giá về kinh. Cảm nghĩ chung về bài thơ Phò giá về kinh. II. Thân bài Bạn đang xem Top 50 bài Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh hay nhất 1. Hào khí chiến thẳng của quân dân ta – Hai câu đầu nói về chiến thắng của quân và dân ta, trong đó có sự đóng góp to lớn của người chỉ huy chính là tác giả. – Động từ “đoạt, cầm” kết hợp với các địa danh “Chương Dương”, “Hồ Hàm Tử” góp phần làm nổi bật sự hào hùng và không khí chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. – Đây đều là những trận chiến gây được tiếng vang lớn. => Không chỉ ca ngợi chiến công của quân dân ta mà còn thể hiện lòng tự hào dân tộc. 2. Khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta – Câu thơ 3 Thái bình tu trí lực Thái bình nên gắng sức. Sau khi đánh bại quân thù, đất nước giành được độc lập bước vào thời bình, cần phải xây dựng và phát triển đất nước. – Câu thứ 4 Vạn cổ thử giang sang Non nước ấy ngàn thu. Khẳng định sự tồn vong bất diệt của đất nước đến muôn đời. => Đây không chỉ là mong muốn của riêng tác giả mà còn là mong muốn của cả một quốc gia, dân tộc. III. Kết bài Đánh giá lại giá trị của Phò giá về kinh. Video Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh Video Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 1 Trần Quang Khải không chỉ là một vị tướng tài ba mà còn là một người có tài văn chương. Bài thơ “Phò giá về kinh” của ông đã giúp người đọc cảm nhận được hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần “Đoạt sóc Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử giang san” Bài thơ được làm lúc tác giả đi đón Thái thượng hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long Hà Nội ngày nay ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Hai câu đầu, Trần Quang Khải đã nói về chiến thắng của quân và dân ta, trong đó có sự đóng góp to lớn của người chỉ huy, cũng chính là tác giả. Việc sử dụng một loại các động từ mạnh như “đoạt, cầm” kết hợp với các địa danh “Chương Dương”, “Hồ Hàm Tử” góp phần làm nổi bật sự hào hùng và không khí chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử. Điều đó cho thấy được chiến công to lớn của quân đội nhà Trần. Nhưng không dừng lại ở đó, nhà thơ còn gửi gắm lòng tự hào dân tộc. Sau khi nói đến chiến thắng lừng lẫy của quân dân nhà Trần, tác giả bộc lộ khát vọng về một đất nước thịnh trị. Đất nước giành được độc lập thì khi bước vào thời bình, cần phải xây dựng và phát triển đất nước. Như vậy thì quốc gia mới tồn tại đến muôn đời. Có thể thấy rằng đây không chỉ là mong muốn của riêng tác giả mà còn là mong muốn của cả một quốc gia, dân tộc. Với cách nói giản dị, cô đúc đã tóm gọn được những vấn đề trọng đại của đất nước chiến thắng cũng như những nhiệm vụ trong thời bình chỉ trong vài câu thơ ngắn. Tóm lại, Phò giá về kinh là một bài thơ tứ tuyệt cô đọng, hàm súc. Bài thơ còn nguyên giá trị đến muốn đời sau. Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 2 Trang sử vẻ vang của dân tộc đã được tái hiện qua những tác phẩm văn học. Một trong số đó là bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần quang Khải đã thể hiện lòng yêu nước cháy bỏng, khát vọng thái bình thịnh trị đến muôn đời “Đoạt sáo Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san” Tác phẩm được sáng tác trong hoàn cảnh Trần Quang Khải đi đón Thái thượng hoàng Trần Thái Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long Hà Nội ngày nay ngay sau chiến thắng Chương Dương, Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm 1285. Thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt ngắn gọn mà hàm súc đã gửi gắm được nhiều ý nghĩa sâu sắc. Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được không khí sôi nổi, hào hùng. Hai động từ mạnh “đoạt” và “cầm” miêu tả chiến thắng oanh liệt của quân dân nhà Trần trong hai trận chiến Chương Dương và Hàm Tử. Cách liệt kê hai địa danh khiến cho ý thơ thêm cụ thể, sâu sắc. Cách dịch thơ cũng không khác so với nguyên tác “Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù” Vị anh hùng thời đại nhà Trần đã tuyên bố về chiến thắng của nhân dân Đại Việt trước kẻ thù một cách thật hùng hồn. Đó là do sức mạnh vô địch của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của tướng sĩ trong cuộc chiến đấu cam go. Bài thơ vang lên như một khúc khải hoàn ca. Hai câu thơ tiếp theo, ý thơ có sự chuyển biến. Trần Quang Khải bày tỏ khát vọng thái bình thịnh trị “Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san” Khát vọng mạnh mẽ nhất của nhà thơ, cũng là của dân tộc là làm sao dựng xây lên được một quốc gia hùng mạnh, no ấm, tồn tại tới ngàn năm. Giọng thơ lúc này không còn dồn dập, sôi nổi mà gửi gắm nhiều tâm tư, khao khát. Đó cũng là lời nhắn nhủ tràn đầy niềm tin và hy vọng về tương lai đất nước sẽ giàu đẹp, phát triển. Đó là tầm nhìn xa trộng rộng của một con người hơn người. Như vậy, chỉ với bốn câu thơ, Trần Quang Khải đã thể hiện được hào khí của dân tộc. Cũng như khát vọng về quốc gia thịnh trị vẫn còn nguyên giá trị đến muôn đời. Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 3 Những trang lịch sử chống giặc ngoại xâm bảo vệ quê hương đất nước của dân tộc Việt Nam thật oanh liệt, hào hùng. Người viết nên những trang sử vẻ vang ấy chính là bao vị anh hùng và nhân dân các thời đại, mà ở thời đại nào, lòng yêu nước nơi họ cũng tỏa sáng rực rỡ. Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải là một trong những vị anh hùng như thế, ông đã đem trọn tài năng, phẩm chất, khí tiết để dâng hiến cho non sông, góp phần đánh tan quân giặc xâm lược Mông – Nguyên mạnh như hổ đói, khi chúng vào giày xéo mảnh đất quê hương. Bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần quang Khải đã thể hiện lòng yêu nước cháy bỏng của ông và một khát vọng mạnh mẽ muốn xây dựng quê hương giàu mạnh đến ngàn thu Đoạt sáo Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san. Bài thơ trên đây có một hoàn cảnh ra đời khá đặc biệt, mà muốn hiểu hết giá trị của nó, ta cần nhắc tới Đó là năm 1285, sau chiến thắng vang dội ở Chương Dương và Hàm Tử, kinh đô được giải phóng. Trong niềm vui chiến thắng rộn ràng, Trần Quang Khải đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long. Hào khí Đông A của thời đại nhà Trần ở lúc thịnh nhất, Trần Quang Khải đã tràn trề cảm xúc tự hào và tin tưởng khi sáng tác bài thơ này. Nhà thơ chọn thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt cực kỳ ngắn gọn, hàm súc để thể hiện niềm vui mạnh mẽ trong lòng ông. Cảm nhận đầu tiên khi đọc bài thơ là giọng thơ sôi nổi, dứt khoát với cách ngắt nhịp 2/3, khiến ta thấy ngay đây là giọng thơ của một nhà thơ võ tướng. Hai động từ mạnh “đoạt” và cầm” miêu tả chiến thắng oanh liệt của quân dân ta với niềm tự hào bất tận, vì chính nhà thơ là người giữ vai trò lãnh đạo hai trận chiến khốc liệt mà vinh quang ở Chương Dương và Hàm Tử. Cách liệt kê hai địa danh khiến cho ý thơ thêm hào hùng. Phép đối của thơ ngũ ngôn tứ tuyệt thật chuẩn, ngay cả ở phần dịch thơ cũng chứa đầy hào khí Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù. Người nam nhi thời Trần đã lập nên nghiệp lớn, dẫn đầu binh sĩ đánh bại cả một đoàn quân bạo tàn từng nghênh ngang cho rằng gót ngựa chúng đi tới đâu thì ngay cả cỏ cũng không mọc nổi. Thế nhưng qua lời tuyên bố ngắn gọn như trên, vị anh hùng thời đại nhà Trần đã tuyên bố về chiến thắng của nhân dân Đại Việt trước bọn chúng. Đó là do sức mạnh vô địch của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước nồng nàn của tướng sĩ trong cuộc chiến đấu cam go. Nhịp điệu nhanh mạnh của câu thơ thể hiện đúng không khí chiến thắng. Và lời thơ cất lên như một khúc khải hoàn ca làm nức lòng người. Có thể nói,nhà thơ đã viết lên lời ký sự ngắn gọn mà nóng bỏng ngay trong phút giây đáng tự hào nhất của thời đại Đông A. Chiến thắng giặc thù rồi, khát vọng của cả dân tộc và của triều đình đâu dừng lại. Nhà thơ nói lên khát vọng ấy Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san. Tức Thái bình nên gắng sức Non nước ấy nghìn thu Hai câu thơ đầu nói về chiến tranh, thì hai câu thơ cuối chuyển ngay sang nói về thời kỳ hòa bình và nhiệm vụ mới của dân tộc. Đây là sự chuyển mạch đột ngột nhưng hợp lý của bái thơ, thế là đã chấm dứt những ngày tháng “ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” Trần Quốc Tuấn, nhưng quân dân không thể ngủ quên trên chiến thắng. Khát vọng mạnh mẽ nhất của nhà thơ, cũng là của dân tộc là làm sao dựng xây lên được một quốc gia hùng mạnh,no ấm, tồn tại tới ngàn năm. Giọng thơ hai câu sau không còn nhanh mạnh, dồn dập như ở hai câu đầu, mà chuyển sang trầm lắng suy tư, như gói trọn bao chiêm nghiệm, khao khát ấp ủ của người anh hùng yêu nước trong một giai đoạn mới. Đó cũng là lời nhắn nhủ tràn đầy niềm tin và hi vọng về tương lai đất nước sẽ đẹp giàu, mạnh mẽ, không kẻ thù ngoại xâm nào dám bén mảng đến. Ta thấy ở đây không chỉ là niềm tin và khát vọng, mà còn là trí tuệ uyên thâm, tầm nhìn xa rộng của một người cầm quân đánh giặc và lãnh đạo nhân dân xây dựng quê hương. Bài thơ tứ tuyệt thật hàm súc và độc đáo, cảm xúc cô đọng, dồn nén, với từng câu, từng chữ đều toát lên niềm tự hào bất tận và khát vọng vĩ đại dựng xây giang san. Còn nguyên vẹn trong bài thơ là chí khí của một người anh hùng vĩ đại thời Trần, cho đến ngày hôm nay, sự cao cả của tấm lòng yêu quê hương đất nước và mơ ước đẹp của nhà thơ vẫn là điều mà mỗi con người Việt Nam đang bền bỉ thực hiện, để “non nước ấy ngàn thu” vững bền và ngày một phát triển. Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 4 Trần Quang Khải là một trong những vị anh hùng đem tài thao lược làm nên chiến công Chương Dương Hàn Tử lừng lẫy muôn đời. Bên cạnh là một võ tướng dũng mãnh ông còn có tài viết văn thơ. Ông cũng để lại một khối lượng tác phẩm khá lớn và có giá trị đến tận ngày nay. Kể đến những tác phẩm tiêu biểu của ông ta không thể không nhắc đến tác phẩm “phò giá về kinh”. Tác phẩm được sáng tác khi ông đi tùy tùng đón vua về khinh thành thăng long Mở đầu bài thơ tác giả muốn giới thiệu đôi nét cho chúng ta về tình cảnh đất nước thời bấy giờ “Chương Dương cướp giáo giặc Hàm tử cướp quân thù” Hai câu thơ đầu tiên là hình ảnh chiến trận thảm khốc nhưng lại chứa đựng những nét thơ ca độc đáo. Chương dương và hàm tử là hai chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông cổ. Đối với nhân dân nhà Trần thì chỉ cần nhắc đến hai cái tên đó cũng đủ nức lòng. Tác giả chính là người chỉ huy trực tiếp chiến trận người góp phần rất lớn làm nên chiến công ấy thì cảm giác của tác giả cũng không kém phần bồi hồi xúc động nhớ nhung. Tác giả kể mà không tả, ông không trực tiếp kể ra trận chiến thảm khốc của nhân dân ta đã chiến thắng oanh dũng trước kẻ thù xâm lược, tuy vật việc chỉ kể ra như thế thôi cũng đủ làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng của nhân dân ta bởi tiếng gươm kiếm tiến ngựa hí tiếng binh khí và cả tiến gào thét vang dội cả trời đất. Đó chính là sức gợi cảm mà lại vô cùng cương nghĩ của tác phẩm Nếu hai câu thơ đầu tiên cho chúng ta một mạch cảm xúc chiến trận hào hùng bi tráng thì hai câu thơ tiếp theo lại hướng về cảnh thanh bình, đó chính là cảnh bình yên mà nhân dân ta đã cố gắng đánh đổi máu sương để có thể giành lại được. “Thái bình nên gắng sức Non nước lấy ngàn thu” Đây phải chăng chính là một lời tự nhủ của tác giả nói với chính bản thân mình về thân phận là quan phải phụng sự đất nước phò tá nhân dân thì nhân dân mới có thể được hưởng thái bình ấm no hạnh phú. Nhà thơ tự nói với mình, tự nhắc nhở mình về nhiệm vụ trước mắt cũng là nhiệm vụ lâu dài “Thái bình tu trí lực”. Giặc ngoại xâm đã bị quét sạch, đất nước được thái bình, các quý tộc, các vương hầu phải “tu trí lực”, nghĩa là nên gắng sức, đem tài trí. đem sức người, sức của ra xây dựng lại đất nước. Đó cũng !à điều tâm huyết mà nhà thơ muốn nhắc nhở mọi người. Lời thơ cho thấy nhặn quan sáng suốt, tầm chiến lược sâu xa của Trần Quang Khải, cho thấy tầng lớp quý tộc nhà Trần là lực lượng tiến bộ nhất trong xu thế đi lên của lịch sử dân tộc, đang nắm quyền lãnh đạo đất nước Đại Việt. Vì sự vững bền của giang sơn đến muôn đời mà “tu trí lực”. Lời thơ bình dị, nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong, cái ý nhắc nhở của nhà thơ thì không chút tầm thường và đơn giả. Đó cũng là lời tự nhủ đối với toàn thể nhân dân ta thời bấy giờ. Tiếng nói khát vọng của một người đã trở thành ý nghĩ quyết tâm của toàn nhân dân ta thời bấy giờ. Tiếng nói khát vọng của một người đã trở thành ý nghĩ quyết tâm của toàn nhân tộc. Đồng thời nhân dân hãy gắng sức phát huy thành quả mà chúng ta mới có được nếu không rất có thể đất nước sẽ rơi vào cảnh nước mất nhà tan. Câu thơ cho chúng ta thấy được tình cảm của một vị tướng quân đối với đất nước khi mà ông mới trở về sau chiến trận nhưng lại quan tâm ngay đến thai bình của nhân dân không để nhân dân vì quá vui mừng cho chiến thắng mà lại quên đi nhiệm vụ xây dựng đất nước của dân tộc ta. Câu thơ kết mở ra cho chúng ta rất nhiều ý nghĩa Câu thơ vừa mở ra cái đích của đất nước lại vừa chỉ ra mong muốn khát khao của chính tác giả về một đất nước hòa bình an cư lạc nghiệp về tương lai tươi sáng của cả dân tộc. Nghĩa của câu thơ biếu ý nhưng nhạc của câu thơ lại biểu cảm. Lời thơ răn dạy hòa bình niềm hi vọng đối với nhân dân đất nước. Tác phẩm là một kiết tác trong nền thơ cổ văn học Việt Nam. Bài thơ có giá trị lịch sử như một tượng đài chiến công tráng lệ và nó đã làm sống lại những chiến công hào hùng của dân tộc ta. Đồng thời tác phẩm cũng cho chúng ta thấy được thế hệ con cháu chúng ta cần học tập thật tốt để xây dựng một đất nước giàu mạnh để đền đáp xứng đáng mong ước của nhân dân ta của cha ông ta. Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 5 Trong văn học trung đại Việt Nam, yêu nước là một đề tài lớn thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ chắp bút. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong quá trình đó dân tộc ta liên tiếp phải đối phó với những vó ngựa của kẻ xâm lược. Tuy nhiên, bằng sức mạnh của lòng đoàn kết, của tinh thần đấu tranh, lòng tự tôn dân tộc, thì nước ta đã vượt qua bao thăng trầm, khẳng định được nền độc lập như ngày nay. Cũng viết về tình yêu tha thiết đối với đất nước cùng sự tự hào đối với sức mạnh của dân tộc, Trần Quang Khải đã sáng tác bài thơ “Phò giá về kinh”. Đọc bài thơ ta sẽ cảm nhận được thấm thía, tình yêu cũng như sự tự hào to lớn này. Bài thơ “Phò giá về kinh sư” được Trần Quang Khải sáng tác khi quân ta thu lại được kinh thành Thăng Long trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, lúc này tác giả đang nhận nhiệm vụ về Thiên Trường để bảo vệ, phò giá hai vị vua trở về kinh đô. Bài thơ này đã thể hiện được niềm tự hào to lớn về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cũng như sức mạnh chống xâm lược của toàn quân, đồng thời qua đó cũng thể hiện được niềm tin mãnh liệt vào vận mệnh vững bền của quốc gia, dân tộc. “Đoạt sóc Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan” Dịch Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù Trong hai câu thơ đầu tiên, Trần Quang Khải đã gợi lại những chiến thắng hiển hách của dân tộc trong niềm tự hào. Đó chính là những chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử, tuy đây không phải những chiến thắng lớn nhất, lừng lẫy nhất của quân ta nhưng đây lại là những chiến thắng cuối cùng, quyết định sự thắng lợi của quân ta. Nhà thơ nhớ lại những giây phút hân hoan, đầy tự hào đó “Chương Dương cướp giáo giặc”, nhà thơ dùng những động từ chỉ hành động để nói về những chiến thắng của quân ta. Tuy nhiên, ta có thể thấy, ở phần phiên âm, nhà thơ dùng từ “đoạt” mang nhiều ý nghĩa hơn ở phần dịch thơ “cướp”. Vì về sắc thái, từ “cướp” chỉ hành động không chính nghĩa, dùng sức mạnh để chiếm đoạt, như vậy sẽ làm mất đi sự hào hùng vốn có của câu thơ. Từ “đoạt” vừa thể hiện được sự thắng lợi của quân ta với giặc khi đoạt được vũ khí – thứ mà chúng dùng để gây chiến tranh, gây ra đau khổ cho dân ta, mà còn thể hiện được tư thế, thái độ của người chiến thắng, quân ta đứng trên thế chủ động, dùng chính nghĩa mà đoạt đi giấc mộng bạo tàn, phi nghĩa của quân giặc. Hiểu như thế ta không chỉ thấy tính chính nghĩa của hành động mà còn thể hiện được tư thế của một dân tộc anh hùng, chính nghĩa. Ở của Hàm Tử cũng ghi dấu một trận chiến oai hùng, một chiến thắng thật đáng tự hào, đó là khi ta giành được thắng lợi cuối cùng, cái gian ác đã bị diệt trừ, nền độc lập được bảo vệ “bắt quân thù”. “Thái bình tu trí lực Vạn cổ cựu giang san” Dịch Thái bình nên gắng sức Non nước ấy nghìn thu Nếu ở hai câu thơ đầu, Trần Quang Khải đã dẫn ra những chiến thắng để thể hiện lòng tự hào về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, thì ở hai câu thơ cuối này, nhà thơ lại hướng đến khẳng định sự vững bền của nền độc lập, của không khí thái bình cũng như tin tưởng tuyệt đối vào vận mệnh trường tồn của đất nước. “Thái bình nên gắng sức”, thái bình là không khí hòa bình, yên ả của đất nước sau khi đã giành được độc lập, đã đánh đuổi được lũ giặc ngoại xâm. Ở câu thơ này, tác giả thể hiện niềm tự hào song cũng là lời nhắc nhở đầy chân tình “nên gắng sức”. Bởi Việt Nam luôn là đối tượng xâm chiếm của những kẻ thù, tuy ta có sức mạnh có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giặc nhưng cũng không nên chủ quan, phải luôn gắng sức để duy trì không khí thái bình và đề cao sự cảnh giác đối với các thế lực bên ngoài. Nhà thơ còn thể hiện một niềm tin bất diệt đối với vận mệnh của đất nước, nhà thơ tin chắc rằng, khi toàn dân ta gắng sức cho nền độc lập, cho không khí thái bình ấy thì dân tộc ta sẽ không còn bị cản trở bởi bất cứ thế lực nào nữa, vận mệnh đất nước sẽ cứ vậy đi lên, cứ mãi vững bền “Non nước ấy nghìn thu”. Như vậy, bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải là một bài thơ đề cao sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tự hào về truyền thống anh hùng, truyền thống chính nghĩa ấy. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện được ý thức của bản thân nhà thơ đối với vận mệnh cũng như sự trường tồn của đất nước, không chỉ là ý thức cho mình, Trần Quang Khải còn đưa ra những lời khuyên chân thành đến với toàn thể nhân dân, những con người anh hùng của một dân tộc giàu truyền thống. Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 6 Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải 1241-1294, con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc. Trần Quang Khải làm thơ không nhiều, nhưng chỉ cần một bài như Phò giá về kinh Tụng giá hoàn kinh sư cũng đủ để thành một tên tuổi. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của vinh quang chiến thắng. Và tác giả của nó, một vị tướng lỗi lạc, mà tên tuổi đã từng phải 10 phen khiến quân thù phải kinh hồn bạt vía, người vừa lập công lớn trong chiến trận, nay kiêu hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đô trong khúc khải hoàn ca của dân tộc. Tức cảnh sinh tình. Trong hào quang của chiến thắng, tâm hồn vị tướng – nhà thơ của chúng ta bỗng dạt dào cảm hứng thi ca, kết tinh thành những vần thơ thật đẹp Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức. Non nước ấy ngàn thu. Trần Trọng Kim dịch Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngụ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc nịch. Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng ca Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù. Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1285. Đối với quân dân nhà Trần lúc đó, chỉ cần nhắc đến cái tên Chương Dương – Hàm Tử cũng đã đủ thấy nức lòng. Đặc biệt, đối với thượng tướng Trần Quang Khải, người trực tiếp chỉ huy và lập nên chiến công trong trận Chương Dương, cũng là người góp phần hỗ trợ đắc lực cho Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, thì càng thêm xao xuyến, bồi hồi. Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó. Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khác Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu. Vẫn với hai câu thơ ngắn gọn, chắc nịch mà lại chất chứa cảm xúc, tâm trạng và bao nỗi niềm suy tư. Vị tướng thắng trận mới đang trên đường trở về kinh đô, chưa kịp nghỉ ngơi chứ đừng nói tới việc hưởng thụ chiến công, đã lo nghĩ cho đất nước, những mong một nền thái bình muôn thuở cho ngàn đời con cháu mai sau. Thật cảm động và đáng kính phục! Tuy nhiên, Trần Quang Khải cảm nhận sâu sắc nền thái bình ấy đâu phải cứ mong là có. Để có nó, cần có sự chung lòng, chung sức, với bao tâm huyết tu trí lực của triều đình và trăm họ, trong đó có sự gắng sức của chính bản thân ông. Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay. Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời. Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 7 Suốt chiều dài lịch sử, nước ta đã trải qua rất nhiều cuộc chiến đấu ác liệt mới có được nên độc lập như ngày hôm nay. Những cuộc chiến đấu ấy không chỉ được ghi lại qua những trang sử hào hừng, mà nó còn được ghi lại qua những bài văn, bài thơ. Một trong số đó là bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải- một tướng giỏi cũng là một người có những vần thơ đặc sắc. Bài thơ đã ghi lại cảm xúc của tác giả về chiến thắng khi trên đường đón hai vua Trần về Kinh. Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử gian san. Bài thơ được sáng tác năm 1285, khi Trần Quang Khải đi đón hai vua Trần sau khi đánh đuổi quân Thoát Hoan. Bài thơ với khí thế hào hừng mừng chiến thắng đã khái quát được chiến thắng của quân ta, đồng thời nêu ra được trách nhiệm của mỗi người trong thời bình. Mở đầu bài thơ là giọng thơ đầy tự hào khi nhắc đến những gì đã đạt được Đoạt sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù Chỉ hai câu thơ ngắn gọn nhưng đã khái quát hết chiến thắng của quân ta. Tác giả chọn hình thức liệt kê, liệt kê ra những địa danh có vai trò quan trọng nhất trong chiến thắng, là Chương Dương và Hàm Tử. Bằng lỗi viết sóng đôi, hai câu thơ như hai về đối, ta có thể thấy được trận chiến ác liệt như hiện lên trước mặt với nhịp thơ có phần nhanh, dồn dập. Và kết thúc trận chiến là chiến thắng thuộc về quân ta khi ta đã đánh tan quân thù ở Chương Dương, chặt đầu tướng giặc Toa Đô ở Hàm Tử. Hai câu thơ không có từ cảm xúc, chỉ như một lời thông báo, nhưng ta có thể cảm nhận được lòng tự hào vô cùng của tác giả trước chiến thắng của đất nước. Và rồi trong cái chiến thắng ấy, Trần Quang Khải đưa ra nhiệm vụ của nhân dân trong thời bình Thái bình tu trí lực, Vạn cổ thử giang san. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu Để có được hòa bình không dễ, giữ được nó lại càng khó. Trần Quang Khải qua hai câu thơ đã nhắc nhở tất cả mọi người không được lơ là, không được chìm đắm trong chiến thắng mà quên đi nhiệm vụ gìn giữ hòa bình. Ông cho rằng, đất nước muốn được nghìn thu, thì phải dựa vào sức mạnh của nhân dân, dựa vào việc nỗ lực xây dựng, bảo vệ đất nước, nỗ lực tự tu dưỡng, rèn luyện chính mình. Cả bài thơ không sử dụng biên pháp tu từ, với thể thơ thất ngon tứ tuyệt, giọng thơ hào hùng đầy chất tráng ca, nhịp thơ sôi nổi thể hiện khí thế, Trần Quang Khải không chỉ khái quát được chiến thắng lừng lẫy của nhân dân ta, mà còn tổng kết nên một bài học vô cùng quý giá. Có thể nói, Trần Quang Khải là một người có lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, đồng thời, ông cũng là một người có tinh thần trách nhiệm cao, có tài trong việc gây dựng đường lối bảo vệ đất nước. Trong xã hội hiện đại ngày nay, bài học từ bài thơ Phò giá về kinh vẫn là bài học mà mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ nên noi theo. Dù cho đất nước không còn chiến tranh, nhưng giặc trong thù ngoài vẫn luôn lăm le, mỗi người hãy nhớ cho mình bài học từ bài thơ, cố gắng tu dưỡng bản thân để góp phần xây dựng đất nước. Cảm nghĩ bài Phò giá về kinh – Mẫu 8 Phò giá về kinh là bài thơ xuất sắc của Trần Quang Khải- một võ tướng kiệt xuất, cũng là người có những vần thơ sâu xa lí thú. Bài thơ đã ghi lại những suy nghĩ của ông trên đường đi đón Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông về Thăng Long. Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn, được chia làm hai phần chính phần một gồm hai câu đầu nói về những chiến công vang dội của quân ta, phần hai lại nói về trách nhiệm giữ gìn hòa bình. Hai câu thơ đầu tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát được chiến thắng oanh liệt của quân ta trước kẻ thù Đoạt sáo Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan. Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù. Trần Quang Khải đã nhắc đến hai địa danh lịch sử là Chương Dương và Hàm Tử, nơi đây đã xảy ra những trận chiến ác liệt, và kết quả không kém phần vui mừng tại trận Hàm Tử, ta chém được Toa Đô, Còn Trần Quang Khải đã đánh đuổi đại quân Nguyên- Mông tại Chương Dương. Tác giả đã sử dụng lối nói liệt kê, kết hợp giọng thơ dồn dập, sôi động, hai câu thơ như hai câu đối tương xứng nhau, không đi vào trận chiến mà chỉ chỉ ra kết quả, nó đã thể hiện niềm vui sướng, mừng rỡ trước chiến thắng của dân tộc, bên cạnh đó còn là niềm tự hào về sức mạnh của dân tộc ta, có thể chiến thắn được mọi kẻ thù. Trước niềm vui chiến thắng đó, tác giả vẫn không quên một nhiệm vụ quan trọng, đó chính là trách nhiệm trong thời bình. Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử giang san. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu. Đất nước vừa yên ổn, giặc xâm lăng đã bị đuổi nhưng thế không có nghĩa là chúng ta có quyền lơ là trước kẻ thù. Hai câu thơ khẳng định một chân lý vì hòa bình cố gắng hết sức mình cống hiến, thì đất nước sẽ yên bình ngàn thu. Nó là lời nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam, không được ngủ quên trong chiến thắng, cũng là lời Trần Quang Khải nhắc nhở chính mình. Qua đây, ta có thể thấy ông là con người có trách nhiệm, suy nghĩ trước sau, đồng thời cũng là con người giàu lòng yêu nước. Bài thơ không sử dụng nghệ thuật, chủ yếu tâp trung vào ngôn từ nhưng cũng có sức lay động lòng người. Nó nhắc nhở mỗi con người về trách nhiệm của bản thân với đất nước. Đồng thời, Phò giá về king cũng thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn của tác giả. Trong hoàn cảnh hiện nay, Phò giá về kinh vẫn là một bài nhắc nhở mọi người. Bên cạnh việc đề phòng cách thế lực nhòm ngó, nhiệm vụ quan trọng hơn của mỗi chúng ta là góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp hơn Đăng bởi Trường Tiểu Học Tiên Phương Chuyên mục Tài Liệu Học Tập

cảm nghĩ bài phó giá về kinh